Kinh tế trưởng World Bank chỉ ra 3 chất xúc tác giúp Việt Nam tăng tốc hậu Covid-19

(Tổ Quốc) - Phát biểu tại Diễn đàn thường niên về Cải cách và Phát triển lần thứ ba năm 2020 (VRDF 2020), Kinh tế trưởng Ngân hàng Thế giới, ông Jacques Morisset đánh giá: Việt Nam đã phát triển rất nhanh rồi nhưng vẫn còn cơ hội để nhanh hơn nữa trong tương lai.

Covid-19 làm thay đổi cục diện

Covid-19 đã khiến thương mại toàn cầu sụt giảm. Theo WTO, mức giảm có thể lên tới 13-35% trong năm 2020 ngay cả với sự phục hồi trong một vài tháng gần đây. FDI trên toàn thế giới năm 2020 ước tính giảm 30-40% (theo UNCTAD).

Tuy nhiên, tình hình này cũng đang tạo ra cơ hội mới cho Việt Nam. Theo ông Jacques Morisset, Việt Nam là một quốc gia rất thông thái, có thể tận dụng lợi thế để làm tốt hơn.

Việt Nam đã kiểm soát tốt Covid-19 và có thể tận dụng điều đó để thu hút các nhà đầu tư. Đây có thể coi là công cụ thúc đẩy và quảng bá tốt nhất. Muốn tăng cường thương mại thì phải kiểm soát tốt khủng hoảng y tế. Rất nhiều công ty đang muốn đến Việt Nam vì Việt Nam đang làm rất tốt trong đại dịch Covid-19.

Nguy cơ gián đoạn chuỗi cung ứng có thể đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch của các công ty đa quốc gia từ Trung Quốc sang Việt Nam. Việt Nam không chỉ smart (thông minh) vì kiểm soát Covid-19 tốt mà còn đang phát triển thực sự nhanh chóng. Một số người cho rằng Việt Nam chưa đủ nhanh trong chuyển đổi số thời kỳ 4.0, nhưng ông Morisset cho rằng Việt Nam đang thúc đẩy rất tốt thương mại điện tử, thanh toán điện tử, chính phủ điện tử… Việt Nam cũng rất smart vì có nhiều cơ hội từ các FTA với EU, các tổ chức trên thế giới.

"Đây là lý do tôi nói rằng Việt Nam rất thông thái" – chuyên gia này nhấn mạnh.

Việt Nam đang làm tốt, nhưng có thể làm tốt hơn nữa

Điểm mạnh của Việt Nam được Kinh tế trưởng WB chỉ ra là:

Việt Nam là một trong những nền kinh tế có độ mở cao nhất về thương mại hàng hóa. Độ mở của Việt Nam cao gấp 1,5 lần Thái Lan và 5 lần Trung Quốc.

Trước Covid-19, Việt Nam cũng là một trong những điểm đến FDI có sức hút lớn trong ASEAN. Dòng vốn FDI vào Việt Nam nhiều hơn Malaysia và Thái Lan 2% GDP. Các chuỗi giá trị toàn cầu chiếm tới 66% giao dịch thương mại.

Các sản phẩm chế biến – chế tạo là nền tảng xuất khẩu vững chắc (chiếm 2/3 giá trị xuất khẩu và 90% các chuỗi giá trị toàn cầu.

Song, có những điểm mà Việt Nam cần cải thiện để có thể làm tốt hơn nữa. Thứ nhất là hàm lượng nội địa hóa còn thấp, thậm chí có xu hướng giảm dần theo thời gian (thấp hơn 2 lần so với Trung Quốc).

Việt Nam cũng tập trung quá vào một số thị trường, sản phẩm, doanh nghiệp. Về thị trường, 4 thị trường lớn nhất là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Hoa Kỳ chiếm tới 60% kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. Việt Nam cũng tập trung nhiều vào 4 sản phẩm hàng đầu là dệt may, điện tử, hóa chất và kim loại, chiếm 2/3 kim ngạch thương mại. 4 tập đoàn hàng đầu chi phối thương mại là Samsung, Foxconn, Intel, Panasonic, chiếm tới 70% kim ngạch thương mại trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Rào cản gia nhập của khu vực dịch vụ còn cao, dẫn đến việc luồng vốn FDI vào lĩnh vực này còn thấp, trừ du lịch.

Tại sao cần thay đổi chiến lược?

Theo ông Morisset, việc hội nhập vào các chuỗi giá trị toàn cầu là chiến lược tạo việc làm có thu nhập cho lực lượng lao động đang tăng nhanh. Việt Nam đã rất thành công trong quá trình hội nhập khi các ngành xuất khẩu tạo ra trên 20 triệu việc làm (trực tiếp và gián tiếp), chiếm khoảng 40% lực lượng lao động hiện nay.

Tuy nhiên, các đột phá công nghệ đã, đang và sẽ làm giảm nhu cầu về lao động kỹ năng thấp trong ngành chế biến chế tạo. Bằng chứng là có một nhà đầu tư tại Việt Nam trong vòng 10 năm có sản lượng tăng gấp đôi nhưng nhân công sử dụng thì lại giảm tới 40%. Từ đầu những năm 1990 đến nay, thâm dụng lao động trong ngành điện tử đã giảm một nửa.

Vì vậy, Việt Nam cần chú trọng hơn đến tác động của chuỗi giá trị toàn cầu bằng cách thúc đẩy nội địa hóa bằng cách liên kết ngược: sử dụng nhiều nhà cung ứng nội địa hóa và liên kết xuôi: sử dụng nhiều nhà phân phối nội địa hơn. Đồng thời, Việt Nam sẽ tiến xa hơn trên chuỗi chuyển đổi để tạo ra các sản phẩm phức tạp hơn.

Bên cạnh đó, Việt Nam cần đa dạng hóa các sản phẩm, thị trường và doanh nghiệp mới để thu hút FDI vào lĩnh vực dịch vụ. Song song với đó là bảo vệ vốn tài nguyên bằng công nghệ sạch và thích ứng/giảm thiểu các tác động của việc biến đổi khí hậu.

Tập trung vào 5 ưu tiên trong dài hạn

Việt Nam cần tập trung vào 5 ưu tiên: lao động có kỹ năng; công nghệ mới; hạ tầng kết nối; mở cửa dịch vụ và các hoạt động phát triển sạch và nâng cao sức chống chịu. Điều này sẽ mất nhiều thời gian chứ không phải có thể làm trong một sớm một chiều mà đạt được. Có khi phải mất một thế hệ để xây dựng sân bay, con đường, hạ tầng mới để lao động có kỹ năng hơn. Việt Nam đang rất tích cực đầu tư và nâng cao hoạt động thương mại.

Trong năm ưu tiên này, ông Morisset nhấn mạnh mở cửa dịch vụ là vô cùng quan trọng vì 2 lý do. Thứ nhất là bản thân ngành dịch vụ là vô cùng quan trọng, thứ hai là phát triển từ sản xuất, chế tạo sang dịch vụ là việc mà nhiều quốc gia đi trước đã làm và thành công. Làm tốt dịch vụ sẽ có tác động ngược lại làm tăng năng suất cho các ngành khác.

Nền kinh tế sạch cũng vô cùng quan trọng, không chỉ là mục tiêu phát triển mà còn là mục tiêu trong kinh doanh.

Làm thế nào để tăng tốc?

Theo chuyên gia này, thời gian là một thách thức. Và nếu Chính phủ không có chính sách tốt, tín hiệu đúng đắn thì Việt Nam không thể gặt hái cơ hội. Chính phủ được kỳ vọng sẽ chú trọng đến giáo dục, đào tạo người dân, nâng cao kỹ năng cho lao động.

Việt Nam cần có 3 xúc tác để tăng tốc. Thứ nhất là cơ chế định giá, Việt Nam đang hướng tới cơ chế giá thị trường và đó có thể nói là một cuộc cách mạng của Việt Nam. Thứ hai là phát triển, ứng dụng tốt các công cụ số để giảm chi phí hành chính thương mại. Thứ ba là phối, kết hợp giữa các thành phần kinh tế. Cần phối hợp thể chế để ra quyết định, thực thi và chia sẻ thông tin kịp thời, hiệu quả.

"Việt Nam đã phát triển rất nhanh rồi nhưng vẫn còn cơ hội để nhanh hơn nữa trong tương lai" – Kinh tế trưởng WB kết luận.

H.A

Tin mới