(Tổ Quốc) - Chậm giải ngân vốn đầu tư công là "nút thắt" của nền kinh tế trong nhiều năm qua. Để tháo gỡ tình trạng này, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã chỉ ra một số giải pháp cho năm 2020.
Bên thềm Xuân mới Canh Tý, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã trả lời phỏng vấn Báo Điện tử Tổ Quốc:
-Năm 2019, bức tranh kinh tế được đánh giá là có nhiều thành tựu. Vậy, ông ấn tượng với những thành tựu nào, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Năm 2019, chúng ta đã duy trì nền tảng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô trong điều kiện thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế biến động mạnh; kiểm soát lạm phát ở mức thấp; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khá cao (mức cao do Quốc hội giao), thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao của khu vực và thế giới; củng cố và mở rộng các cân đối lớn của nền kinh tế.
Cơ cấu lại nền kinh tế thực chất hơn; trong bối cảnh khó khăn các ngành, lĩnh vực chủ yếu vẫn phát triển ổn định, tích cực; sản xuất công nghiệp tăng mạnh, công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục giữ vai trò động lực tăng trưởng kinh tế; nông nghiệp phát triển ổn định, trong đó xây dựng nông thôn mới đạt kết quả vượt bậc; khu vực dịch vụ duy trì đà tăng khá cao.
Môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện, tập trung tháo gỡ khó khăn để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đơn giản hóa, cắt giảm thủ tục hành chính, tiết giảm chi phí, hỗ trợ tiếp cận thị trường và các nguồn lực, phát huy tinh thần khởi nghiệp, phát triển mạnh mẽ các mô hình đổi mới, sáng tạo, số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới năm sau cao hơn năm trước. Năm 2019, theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Việt Nam lần đầu tiên vươn lên trong nửa trên của bảng xếp hạng thế giới, vị trí 67/141 nền kinh tế được xếp hạng (tăng 10 bậc so với năm 2018), xếp thứ 8 trong số các nền kinh tế tốt nhất thế giới để đầu tư (tăng 15 bậc so với năm 2018).
Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển các lĩnh vực xã hội. Việc thực hiện thành công 2 mục tiêu vừa giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đã tạo thêm dư địa để thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, chăm lo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân…
Vai trò, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được khẳng định và nâng cao, ngày càng giành được sự ủng hộ, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế , góp phần thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích của đất nước.
Nguyên nhân của các kết quả được phân tích đầy đủ trong báo cáo của Chính phủ, tuy nhiên tôi xin nhấn mạnh 3 nguyên nhân chủ yếu, đó là sự bảo đảm chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, môi trường hòa bình, tạo thuận lợi cho phát triển KTXH của đất nước…
Sự đoàn kết, thống nhất, nỗ lực phấn đấu, chung sức, chung lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân; sự đồng tâm nhất trí của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội; sự phối kết hợp nhịp nhàng, đồng bộ, hiệu quả hơn của cả hệ thống chính trị trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ đã giải quyết kịp thời, hiệu quả các vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển, cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh, đáp ứng mong đợi của xã hội;…
Đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Việt Nam nhận được sự ủng hộ, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế, tranh thủ được các cơ hội mang lại trong quá trình hội nhập và hạn chế những rủi ro, tranh chấp có thể xảy ra trong quá trình phát triển đất nước.
-Những thách thức, hạn chế của nền kinh tế theo quan sát của Bộ trưởng là gì?
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Bên cạnh các kết quả đạt được về KTXH năm 2019 thì nền kinh tế nước ta vẫn còn có những tồn tại, hạn chế đã được Chính phủ chỉ ra trong các báo cáo, một số vấn đề tích tụ, tồn đọng từ lâu, không dễ một sớm một chiều có thể khắc phục được. Nổi lên là:
Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế tuy đạt được một số kết quả nhưng đang bị hạn chế bởi hệ thống hạ tầng phục vụ cho phát triển của đất nước còn chưa tốt... Mô hình tăng trưởng hiện nay chưa là động lực để tạo phát triển bứt phá, đưa kinh tế nước nhà tiến nhanh, tiến kịp các quốc gia trên trường quốc tế và khu vực;
Cơ cấu lại và phát triển các ngành, lĩnh vực tiếp tục có những chuyển biến tích cực, nhưng đi sâu vào thì vẫn còn có những yếu tố thiếu bền vững;
Kết quả thực hiện các đột phá chiến lược mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn hạn chế, không theo kịp yêu cầu phát triển, tác động trực tiếp tới tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của đất nước giai đoạn 2016-2020;
Những hạn chế, yếu kém về mặt văn hóa và con người đang cản trở sự phát triển đất nước như: tình trạng tha hóa đạo đức, tệ nạn xã hội, những vi phạm trong một số lĩnh vực xã hội đã và đang đặt ra những thách thức rất lớn, cần phải được quan tâm, ưu tiên giải quyết trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật và bảo đảm tính nghiêm minh trong quá trình thực thi;
Tình trạng ô nhiễm môi trường diễn biến phức tạp; tác động của biến đổi khí hậu, các hiện tượng thời tiết cực đoan, sạt lở bờ sông, ven biển ngày càng xảy ra nghiêm trọng , quản lý môi trường tại các đô thị lớn, khu công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông còn tồn tại, hạn chế.
Việc khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên là không đơn giản, cần có sự kết hợp giữa những giải pháp ngắn hạn và dài hạn trong thời gian tới và cần có những giải pháp căn cơ và có sự phối kết hợp nhịp nhàng, đồng bộ, hiệu quả hơn nữa giữa các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Mặt trận tổ quốc cùng sự đồng thuận, chung tay của toàn thể nhân dân để cùng khơi dậy tinh thần yêu nước, tự hào, ý chí, bản lĩnh, khát vọng con người Việt Nam để vượt lên khó khăn, thực hiện thành công kế hoạch năm 2020 và 5 năm 2016-2020, tạo đà xây dựng đất nước phát triển, giàu mạnh và thịnh vượng trong những năm tới.
-Quốc hội đặt mục tiêu tốc độ tăng trưởng năm 2020 khoảng 6,8%. Vậy đâu là động lực cho năm 2020, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Nhìn chung từ đầu nhiệm kỳ, tình hình kinh tế vĩ mô nước ta cơ bản duy trì ổn định, lạm phát thấp, thu nhập tăng, tầng lớp trung lưu tăng đã tiếp tục duy trì, củng cố tổng cầu và sức mua tích cực cho nền kinh tế.
Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt kết quả tích cực đã góp phần cải thiện chất lượng tăng trưởng thể hiện qua: (i) việc cơ cấu lại ngành, lĩnh vực đạt kết quả khích lệ, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tăng cao, công nghiệp chế biến chế tạo là đầu tàu phát triển, xuất hiện nhiều loại hình dịch vụ mới, hiện đại, thúc đẩy chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng giảm nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ; (ii) tăng trưởng giảm dần dựa vào khai khoảng và tăng trưởng tín dụng; đóng góp của TFP hằng năm trên 40%, cao hơn giai đoạn trước (33,58%), vượt mục tiêu đề ra (30-35%); (iii) năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt 5,8%/năm vượt mục tiêu 5 năm là 5,5%/năm.
Qua đó cho thấy, động lực tăng trưởng kinh tế dần được cải thiện qua các năm cả từ phía cung và phía cầu, dần trở thành những yếu tố nền tảng thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững.
Năm 2020 tiếp tục là năm có nhiều khó khăn, thách thức, tăng trưởng kinh tế và thương mại toàn cầu chậm lại, rủi ro gia tăng, xu hướng bảo hộ, cạnh tranh ngày càng phức tạp, gay gắt. Với độ mở kinh tế lớn, các tác động tiêu cực của kinh tế thế giới đến kinh tế trong nước nhanh và mạnh hơn.
Tuy nhiên, với những biện pháp đề ra tập trung vào các nhiệm vụ, như: Quyết liệt đổi mới và cải cách hiệu quả hơn nữa để khơi thông thể chế, nguồn lực cho phát triển; Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đồng bộ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu hội nhập; tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh; Tập trung giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, tạo nền tảng cho phát triển nhanh và bền vững…
Bên cạnh đó, với nền tảng vĩ mô ổn định, với môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng và sự nỗ lực không ngừng của các cơ quan để cải cách, đổi mới, tập trung vào việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nhất là về thể chế, là điều kiện thuận lợi khuyến khích các thành phần kinh tế phấn khởi, gia tăng đầu tư, sản xuất, tạo ra những năng lực mới tăng thêm cho nền kinh tế.
-Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang khẩn trương giúp Tiểu ban Kinh tế - Xã hội xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2021- 2030, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2021-2025 để chuẩn bị cho Đại hội Đảng XIII. Vậy đâu là những điểm đáng chú ý trong chiến lược và kế hoạch này, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Đại hội Đảng lần thứ XIII là một sự kiện chính trị hết sức quan trọng, trong đó có việc xem xét và thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mười năm 2021-2030 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 cho nhiệm kỳ sắp tới.
Sau gần 35 năm Đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thế và lực của nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều; quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên; tính độc lập, tự chủ được cải thiện. Vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn những tồn tại, hạn chế và tiềm ẩn nhiều rủi ro, khả năng chống chịu, thích ứng với tác động bên ngoài còn yếu. Các yếu tố nền tảng (thể chế, hạ tầng, nguồn nhân lực...) để sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại còn thấp xa so với yêu cầu. Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu xa hơn về kinh tế vẫn còn là thách thức lớn. Già hóa dân số tăng nhanh dẫn đến áp lực lên hệ thống an sinh xã hội và tác động đến tăng trưởng kinh tế. Nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, bảo đảm an ninh quốc gia gặp nhiều khó khăn, thách thức; sự chống phá của thế lực thù địch, phản động còn phức tạp.
Trong khi đó, bối cảnh quốc tế trong giai đoạn sắp tới có nhiều biến động. Bên cạnh xu thế chủ đạo hòa bình, hợp tác, liên kết và phát triển được dự báo là vẫn tồn tại sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn theo hướng ngày càng phức tạp, gay gắt…Điều kiện, thế và lực của nước ta cho phép có những tư duy mạnh dạn hơn, mạnh mẽ hơn, nhưng, bối cảnh quốc tế mới, như đã nêu, với sự cạnh tranh mạnh mẽ hơn, xu thế biến động nhanh chóng của khoa học và công nghệ, của Cách mạng công nghiệp lần thư tư đòi hỏi phải có tư duy mới, tầm nhìn mới và đây chính là những điểm đáng chú ý trong Chiến lược và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội lần này.
Về mục tiêu phát triển, hướng tới việc thu hẹp khoảng cách phát triển với thế giới trong dài hạn, theo đó có thể đặt vấn đề đến năm 2030, nước ta trở thành nước công nghiệp, thuộc nhóm trên của các nước có thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, làm chủ công nghệ gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; phát huy sức sáng tạo, ý chí và khát vọng phát triển…Theo đó, có thể đặt mục tiêu tốc độ tăng trưởng (GDP) đạt bình quân khoảng 7,0%/năm; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2030 đạt khoảng 8.000 USD/người.
Vì vậy, cần tiếp tục thực hiện các đột phá đã xác định tại Chiến lược phát triển 2011-2020 với những nội hàm mới, trọng tâm mới về nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, trọng tâm là thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, khoa học công nghệ; phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam; hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, hiện đại, trọng tâm là ưu tiên phát triển hạ tầng giao thông, năng lượng, công nghệ thông tin, đô thị lớn, hạ tầng ứng phó biến đổi khí hậu, phát triển mạnh hạ tầng số, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, các trung tâm dữ liệu vùng và các địa phương kết nối đồng bộ và thống nhất, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số.
-Chậm giải ngân vốn đầu tư công là nút thắt của nền kinh tế trong nhiều năm qua. Vậy đâu là giải pháp để cải thiện vấn đề này, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Triển khai Nghị quyết số 94/NQ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2019 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy nhanh tiến độ phân bổ và giải ngân vốn đầu tư công năm 2019, công tác giải ngân vốn đầu tư tiếp tục được các bộ, ngành và địa phương quan tâm chỉ đạo thực hiện và đã đạt được một số kết quả tích cực. Tuy nhiên, với tiến độ giải ngân như hiện nay, khả năng giải ngân hết kế hoạch năm 2019 là rất khó khăn.
Ngoài ra, công tác tổ chức triển khai thực hiện tại các bộ, ngành và địa phương còn nhiều bất cập; các cấp, các ngành chưa thực sự vào cuộc, vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu chưa được đề cao, chưa rõ nét; công tác tuyên truyền đến người dân về chính sách bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng còn chưa đầy đủ, thiếu minh bạch, thiếu công bằng; một số chủ đầu tư chưa tích cực thực hiện các thủ tục thanh toán, quyết toán; năng lực chuyên môn của một số cán bộ quản lý dự án, tư vấn giám sát, nhà thầu... còn hạn chế, không đáp ứng được yêu cầu; công tác đôn đốc nhà thầu triển khai thi công chưa quyết liệt và hiệu quả.
Về nguyên nhân khách quan thủ tục điều chỉnh chưa được đơn giản hóa, phải được xét duyệt qua nhiều cấp, thủ tục này phải chờ thủ tục kia, mất nhiều thời gian, chưa chủ động, linh hoạt. Một số quy định sau một thời gian thực hiện bộc lộc nhiều hạn chế như: quyết định đầu tư phải trước 31/10 năm trước, tiết kiệm 10% trên tổng mức đầu tư, cho phép giải ngân vốn 02 năm, bãi bỏ quy định Thường trực Hội đồng nhân dân được ủy quyền, ... cần được tháo gỡ. Đồng thời năm 2019 là năm có nhiều điều chỉnh trong kế hoạch trung hạn, như sử dụng dự phòng 10% tại các bộ, ngành, địa phương, điều chỉnh cắt giảm, bổ sung vốn và danh mục dự án... nên mất nhiều thời gian rà soát, xét duyệt của các cấp có thẩm quyền theo quy định pháp luật, trong khi đó danh mục và số vốn kế hoạch trung hạn là điều kiện tiên quyết để giao kế hoạch vốn hằng năm.
Để đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2020, trong năm 2020 các bộ, ngành và địa phương tập trung thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu. Trong đó phân bổ chi tiết mức vốn kế hoạch đầu tư vốn ngân sách trung ương năm 2020 theo tổng mức vốn đã được Thủ tướng Chính phủ giao, chi tiết danh mục dự án, mức vốn bố trí cho từng dự án cho các cơ quan, đơn vị trực thuộc và Ủy ban nhân dân cấp dưới. Đây là một điểm mới so với các năm trước, khắc phục hoàn toàn tình trạng giao kế hoạch chậm ở cấp trung ương như các năm trước đây, kế hoạch đầu tư công năm 2020 Thủ tướng Chính phủ đã giao hết cho các bộ, ngành và địa phương trước ngày 30/11/2019.
Chỉ đạo chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án; Kiên quyết xử lý nghiêm và kịp thời các nhà thầu vi phạm tiến độ xây dựng, chất lượng công trình, chậm giao nộp thủ tục thanh toán khối lượng hoàn thành và vi phạm các Điều Khoản hợp đồng đã ký kết; chủ động đề xuất, báo cáo điều chuyển khối lượng thi công của các nhà thầu có nguy cơ chậm tiến độ cho các nhà thầu khác thực hiện; Xử lý nghiêm các cá nhân trong đơn vị cố tình cản trở, gây khó khăn, làm chậm tiến độ thực hiện và giải ngân của dự án. Kịp thời thay thế những viên chức, người lao động yếu kém hoặc nhũng nhiễu, tiêu cực trong thực thi nhiệm vụ quản lý vốn đầu tư và trong công tác đấu thầu.
Thường xuyên tổ chức đánh giá tiến độ thực hiện các dự án; đối với những dự án thực hiện không đúng tiến độ phải kịp thời quyết định điều chỉnh để chuyển vốn cho những dự án có tiến độ triển khai nhanh, có khả năng hoàn thành trong năm 2020 nhưng chưa được bố trí đủ vốn. Việc điều chỉnh kế hoạch đầu tư vốn ngân sách trung ương thuộc thẩm quyền của Người đứng đầu bộ, cơ quan trung ương và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đây cũng là một điểm mới trong Luật Đầu tư công số 39/2019/QH14.
Theo chức năng, nhiệm vụ, các bộ, ngành và địa phương tiếp tục nghiên cứu, rà soát hoàn thiện khung pháp lý, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, tham mưu cho Chính phủ kịp thời loại bỏ, tháo gỡ các rào cản khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách liên quan đến lĩnh vực đầu tư, xây dựng cơ bản.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát phân bổ và giải ngân vốn đầu tư công, trong đó, các cơ quan chuyên môn về thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát cần vào cuộc để góp phần phát hiện, xử lý, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc đối với công tác giải ngân, ngăn chặn những hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật, bảo đảm đầu tư công được công khai, minh bạch, hiệu quả; Hội đồng nhân dân và Đoàn Đại biểu quốc hội tại địa phương có trách nhiệm tổ chức các hoạt động giám sát chuyên đề đối với công tác giải ngân vốn đầu tư công ngay tại địa phương mình; phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức đoàn thể, các cơ quan truyền thông, báo chí trong công tác giám sát giải ngân vốn đầu tư công.
-Xin cảm ơn Bộ trưởng!
Hà Giang
Ảnh: Nam Nguyễn