(Tổ Quốc) - Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo và các loại hình tín ngưỡng khác nhau, nhiều tôn giáo lớn du nhập từ hàng nghìn năm trước như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo và những tôn giáo hình thành trong nước như Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Tứ Ân, Hiếu Nghĩa… Theo ước tính có khoảng 95% dân số Việt Nam có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo; trong đó có trên 24 triệu tín đồ của các tôn giáo khác nhau (chiếm khoảng 27% dân số), thuộc 38 tổ chức tôn giáo. Cả nước có gần 53.000 chức sắc, 133.700 chức việc tôn giáo và khoảng 27.900 cơ sở thờ tự. Các ngày lễ tôn giáo lớn như Lễ Giáng sinh của đạo Công giáo, Lễ Phật đản của Phật giáo… đều được tổ chức trọng thể theo các nghi lễ tôn giáo, hànng năm có khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo hoặc tín ngưỡng cấp quốc gia và địa phương được tổ chức. Các tôn giáo lớn hiện nay xuất hiện ở hầu khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước và có nhiều hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra sôi động.
Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta luôn có quan điểm, chủ chương, thái độ rõ ràng về tín ngưỡng, tôn giáo theo lịch sử phát triển của dân tộc. Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Quyền này được thể hiện rõ ở những quan điểm, chủ trương, Hiến pháp, pháp luật và được bảo đảm thực hiện trên thực tế. Đảng ta xác định: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta". Theo đó, Đảng và Nhà nước ta "thực hiện chính sách nhất quán tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và bình đẳng trước pháp luật.
Với chính sách nhất quán đó, trong những năm qua việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu được cộng đồng quốc tế ca ngợi. Theo đó, Chính phủ đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Đây là bước rất quan trọng để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo không ngừng được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện. Văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo không những tăng nhanh về số lượng mà còn phong phú và đa dạng hơn về hình thức để phù hợp với tình hình thực tiễn. Đặc biệt, trên cơ sở nghị Nghị quyết số 25/NQ-TW về công tác tôn giáo, Quốc hội, Chính phủ đã thể chế hóa thành các quy định của pháp luật và các kế hoạch, giải pháp, cơ chế bảo đảm thực hiện, tạo cơ sở pháp lý bảo đảm cho công dân thực hiện quyền cơ bản về tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, có hiệu lực từ ngày 1.1.2018. Đây là lần đầu tiên quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được luật hóa một cách cụ thể, đầy đủ thành một chế định riêng và có nhiều điểm mới so với Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004. Trong đó, Điều 6 của luật này, bên cạnh việc khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào của mọi người, điều luật còn quy định cụ thể quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của con người được thực hiện thông qua việc bày tỏ niềm tin, thực hành lễ nghi, tham gia lễ hội tín ngưỡng tôn giáo, học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tín ngưỡng, tôn giáo. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta quy định: "Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo".
Như vậy, có thể khẳng định đây là sự thể hiện đầy đủ nhất về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, trước hết là quyền con người, là sự tự nhiên, vốn có và phải được bảo đảm ngay cả khi con người bị tước quyền công dân. Ngoài ra, Đảng, Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách chăm lo đến đời sống của đồng bào theo tôn giáo. Các bộ, ngành, đoàn thể và các địa phương đã cụ thể hóa chủ trương, chính sách bằng nhiều chương trình hành động và kế hoạch thực hiện phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, tập trung giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, phát triển văn hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho các sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào có đạo.
Hơn nữa, các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam có quyền và được Nhà nước tạo điều kiện mở trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo; chủ động trong việc củng cố tổ chức phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức sắc, chức việc, nhà tu hành để chăm lo việc đạo theo Hiến chương của các tôn giáo và quy định của pháp luật; các chức sắc, nhà tu hành tôn giáo cũng có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, có quyền ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp như mọi công dân khác theo quy định của pháp luật...Chính vì vậy, các tổ chức tôn giáo, chức sắc và tín đồ đã thể hiện sự tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta, yên tâm sinh hoạt tôn giáo và cùng nhau hưởng cuộc sống thanh bình, trên một đất nước ổn định về chính trị, cùng nhau đoàn kết, đồng lòng, sống "tốt đời", "đẹp đạo" vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.