(Tổ Quốc) - Theo các chuyên gia, để có được nguồn nhân lực du lịch chuẩn quốc tế trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam cần có hệ thống chính sách đào tạo phù hợp, đột phá.
Tại Hội thảo quốc tế "Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực du lịch chuẩn quốc tế trong giai đoạn hiện nay" trong khuôn khổ Hội chợ Du lịch quốc tế - VITM Hà Nội 2024, nhiều vấn đề về đào tạo, phục hồi nguồn nhân lực chất lượng cao đã được các chuyên gia đưa ra bàn thảo.
Năng suất lao động trong ngành du lịch và khách sạn tại Việt Nam còn thấp
Theo GS.TS Đào Mạnh Hùng, Chủ tịch Liên chi hội đào tạo du lịch Việt Nam, tính đến thời điểm hiện tại, cả nước hiện có 195 cơ sở đào tạo du lịch gồm: 65 trường đại học có các khoa du lịch; 55 trường cao đẳng; 71 trường trung cấp và 4 trung tâm đào tạo nghề; 2 cơ sở đào tạo trực thuộc doanh nghiệp.
Hàng năm các cơ sở đào tạo du lịch cho tốt nghiệp ra trường được khoảng 20.000 sinh viên học viên trên khoảng 22.000 học sinh tuyển dụng đầu vào. Trong đó có khoảng 1.800 sinh viên đại học, cao đẳng chuyên nghiệp, 2.100 sinh viên cao đẳng nghề du lịch, khoảng 18.200 học viên hệ trung cấp, ngoài ra còn có khoảng 5.000 sơ cấp và đào tạo truyền nghề dưới 3 tháng.
GS.TS Đào Mạnh Hùng cho rằng, vấn đề phát triển nhân lực, đặc biệt nhân lực có chất lượng cao đang là thách thức đối với du lịch Việt Nam trước yêu cầu của tình hình mới. Đây cũng là vấn đề đặt ra trong việc xây dựng thương hiệu sản phẩm du lịch Việt Nam một cách bền vững. Trong khuôn khổ Diễn đàn du lịch ASEAN (ATF), so với các nước trong khu vực, thì chất lượng dịch vụ du lịch Việt Nam nói chung và tại các trung tâm du lịch lớn vẫn còn hạn chế.
Báo cáo của Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch cho biết, theo đánh giá của các chuyên gia, chất lượng, năng suất lao động trong ngành du lịch và khách sạn tại Việt Nam còn thấp.
Cụ thể, năng suất lao động tại khách sạn ở Việt Nam chỉ bằng 1/15 so với Singapore, 1/10 so với Nhật Bản và 1/5 so với Malaysia. Lao động ngành du lịch có nguy cơ bị cạnh tranh việc làm ngay tại Việt Nam bởi nhân lực từ các nước ASEAN như: Thái Lan, Philippines và Malaysia.... Hiện nay, lao động Philippines, Thái Lan, Indonesia, Singapore đến Việt Nam để làm việc khá nhiều, hầu như khách sạn 4-5 sao đều có lao động nước ngoài.
GS.TS Đào Mạnh Hùng cũng nêu quan điểm, chất lượng của đội ngũ giảng viên còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu tiêu chuẩn; Phần lớn các cơ sở đào tạo chưa đưa ra được tiêu chuẩn của đầu ra; Phương pháp giảng dạy tại nhiều trường du lịch còn nặng về lý thuyết, coi nhẹ hay lẩn tránh thực hành trong khi việc đào tạo nghề Du lịch cần ưu tiên cho thực hành ở tỉ lệ cao.
"Nghịch lý là, khi đào tạo thì đòi hỏi phải có thực hành, nhưng khi đi kiến tập và thực tập tại các cơ sở thì thì sinh viên khó có thể tiếp cận được với công việc thực tế bởi nhiều quy định ràng buộc. Nên dẫn tới tình trạng suốt thời gian thực sinh viên vẫn không có khả năng tiếp cận với thực tế nghề nghiệp và tích lũy được kinh nghiệm cho bản thân", GS.TS Đào Mạnh Hùng nói.
Chưa có sự thay đổi mang tính đột phá trong việc lựa chọn mô hình đào tạo
Phân tích những vấn đề còn tồn tại, hạn chế trong đào tạo nguồn nhân lực du lịch; xu hướng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch chuẩn quốc tế tại Việt Nam, PGS.TS Dương Đức Thắng, Trưởng khoa Du lịch (Trường Đại học Công nghệ Đông Á) cho biết: “Công tác đào tạo theo phương thức truyền thống hiện không còn phù hợp với tiêu chuẩn, đòi hỏi ngày càng cao của ngành Du lịch.
Nhân lực du lịch hiện nay không chỉ thông thạo ngoại ngữ mà còn phải sử dụng tốt công nghệ, các kỹ năng xây dựng sản phẩm theo tiêu chuẩn chất lượng cao. Trong khi đó, nhiều sinh viên được đào tạo tại các khoa du lịch khi ra trường thậm chí không cạnh tranh được với những sinh viên học ngoại ngữ do yếu kỹ năng giao tiếp với người nước ngoài. Đây là thực tế đáng buồn".
Để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực Du lịch chất lượng cao, PGS.TS Phạm Trung Lương nhấn mạnh, cần có hệ thống chính sách đào tạo phù hợp, trong đó nổi bật là chính sách thu hút giảng viên có trình độ từ bên ngoài bao gồm cả các giảng viên từ các cơ sở đào tạo có danh tiếng trong khu vực và trên thế giới.
Chính sách nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ giảng viên; chính sách khuyến khích gắn kết hoạt động giảng dạy với hoạt động nghiên cứu; chính sách hỗ trợ nâng cấp và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật đào tạo. Đặc biệt, việc xây dựng, hoàn thiện và áp dụng hệ thống chính sách cần không có sự phân biệt đối với các cơ sở đào tạo có hình thức sở hữu khác nhau.
Cũng theo PGS.TS Phạm Trung Lương, hiện tại chưa có sự thay đổi mang tính đột phá trong việc lựa chọn mô hình đào tạo. Theo đó, mô hình đào tạo chủ yếu hiện nay vẫn theo "vết mòn", mang nặng tính hành chính của thời kỳ "bao cấp", chưa tôn trọng nguyên tắc "cung – cầu", thiếu tầm nhìn trong bối cảnh hội nhập và sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, đặc biệt là cách mạng công nghiệp 4.0. Chính vì thế, cần đổi mới tư duy và giải pháp cho mô hình đào tạo nguồn.
PGS.TS Phạm Hồng Long, Trưởng khoa Du lịch (Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng, Việt Nam có 3 xu hướng đào tạo, đó là: Thực hành, nghiên cứu quản lý, hoặc kết hợp 2 hình thức này. Hiện nay, chưa có chuẩn mực, tiêu chí về đào tạo chuẩn quốc tế, đó là cái khó để các trường xây dựng mô hình đào tạo phù hợp. Tuy nhiên, các trường có thể tuân thủ các quy định về kiểm định đào tạo quốc tế với chuẩn mực như mạng lưới các trường đại học ở châu Á, châu Âu.
Ngành Du lịch Việt Nam đang đặt ra nhiều yêu cầu cao trong phát triển du lịch, thu hút khách quốc tế nhiều hơn trong thời gian tới, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp nhiều hơn cho GDP. Vì thế, hơn lúc nào hết, công tác đào tạo nhân lực chuẩn quốc tế càng trở nên cấp bách, cần được quan tâm ngay từ đầu vào.