• Đường dây nóng

    0901.22.33.66 - toasoan@toquoc.gov.vn

  • Liên hệ quảng cáo

    091.358.6788

Đây là những lỗ hổng pháp lý về xâm hại tình dục mà "con voi" tội phạm có thể chui qua

Thời sự 22/04/2019 09:08

(Tổ Quốc) - Mới đây, nhóm nghiên cứu của Ủy ban Tư pháp (Quốc hội) đã chỉ ra những khó khăn, bất cập trong phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em nói riêng và xâm hại tình dục nói chung qua những vụ bức xúc, nổi cộm gần đây.

Chưa có văn bản hướng dẫn xử lý hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc

Theo nhóm nghiên cứu, hiện vẫn thiếu các văn bản hướng dẫn một số quy định trong các luật để bảo đảm việc áp dụng, xử lý thống nhất, chính xác.

Ví dụ, Bộ luật Lao động năm 2012 (khoản 2 Điều 8) quy định nghiêm cấm hành vi "quấy rối tình dục tại nơi làm việc". Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn: thế nào là hành vi quấy rối tình dục, các biểu hiện cụ thể của hành vi này.

Đồng thời, Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn luật cũng chưa quy định chế tài xử lý đối với hành vi quấy rối tình dục. Khi xảy ra trên thực tiễn, các cơ quan có xu hướng vận dụng Điều 5 Nghị định số 167/2013NĐ-CP của Chính phủ để xử phạt về hành vi vi phạm quy định về trật tự công cộng.

Nhiều trường hợp sau khi áp dụng Điều 5 Nghị định số 167/2013NĐ-CP để xử lý, dư luận, cử tri, báo chí phản ứng việc áp dụng pháp luật khiên cưỡng, chưa chính xác, nhưng các cơ quan chức năng cũng không tìm được các quy định tương ứng để áp dụng.

Đây là những lỗ hổng pháp lý về xâm hại tình dục mà con voi tội phạm có thể chui qua - Ảnh 1.

Ngày 21/4, ông Nguyễn Hữu Linh đã bị khởi tố về tội "Dâm ô với người dưới 16 tuổi"


Hay một ví dụ nữa, Bộ luật Hình sự năm 2015 (Điều 146) quy định Tội dâm ô người dưới 16 tuổi. Tại văn bản số 561/KN-UBTP năm 2017, Ủy ban Tư pháp kiến nghị Tòa án Nhân dân tối cao ban hành văn bản hướng dẫn xác định các dấu hiệu của Tội dâm ô. Tuy nhiên, đến nay TAND tối cao chưa ban hành được văn bản hướng dẫn này.

Thông tư liên tịch số 01 của liên ngành tư pháp trung ương được ban hành từ năm 1998 có hướng dẫn về hành vi dâm ô, theo đó là hành vi của người phạm tội tác động vào bộ phận kích thích tình dục của trẻ... Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử của TAND tối cao (tại Hướng dẫn số 329/HS2 ngày 11/5/1967) đối với một số tội phạm xâm hại tình dục định nghĩa "hành vi dâm ô là hành vi bỉ ổi đối với người khác, tuy không có mục đích giao cấu nhưng cũng nhằm làm thỏa mãn tình dục của người phạm tội hoặc khêu gợi bản năng tình dục của người đó". Nhiều chuyên gia cho rằng quy định của Thông tư 01 về "bộ phận kích thích tình dục" rất khó xác định để áp dụng thống nhất.

Tuy nhiên, đến nay, Thông tư liên tịch số 01 cũng đã hết hiệu lực, một số cơ quan phản ánh trong gặp khó khăn khi xử lý một số vụ, việc do chưa có hướng dẫn cụ thể về dấu hiệu của hành vi dâm ô.

Về việc này, Nhóm nghiên cứu của Ủy ban Tư pháp đề nghị Tòa án Nhân dân tối cao báo cáo việc thực hiện kiến nghị của Ủy ban Tư pháp về việc hướng dẫn các dấu hiệu của Tội dâm ô người dưới 16 tuổi, lý do vì sao đến nay chưa ban hành được? Trên thực tế, Tòa án dựa vào văn bản nào để xét xử Tội dâm ô?

Xử lý khiên cưỡng, thiếu chính xác, chưa nghiêm

Theo Nhóm nghiên cứu, có khoảng trống trong pháp luật xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi xâm hại tình dục dẫn đến áp dụng, xử lý khiên cưỡng, thiếu chính xác, mức xử phạt chưa nghiêm.

Nhiều vụ việc xảy ra trong thời gian (như: vụ nam công chức ở Triệu Phong, Quảng Trị dùng vũ lực tấn công tình dục nữ đồng nghiệp; vụ dùng vũ lực, dùng tay giữ má nạn nhân để ép hôn trái ý muốn trong thang máy chung cư tại Hà Nội; vụ thầy giáo chủ nhiệm có hành vi sờ mông, sờ đùi một số học sinh nữ v.v..) các cơ quan có trách nhiệm xử lý đều có xu hướng áp dụng Điều 5 Nghị định số 167/2013NĐ-CP của Chính phủ để xử phạt về hành vi vi phạm quy định về trật tự công cộng.

Đây là những hành vi có tính chất quấy rối tình dục, xâm hại tình dục, nhưng do Luật xử lý vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn không quy định rõ về các hành vi này, nên các cơ quan phải vận dụng để xử phạt về hành vi vi phạm trật tự công cộng "nói chung".

"Điều này cho thấy khoảng trống lớn trong pháp luật xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi xâm hại tình dục"- Nhóm nghiên cứu khẳng định.

Chưa có quy trình tố tụng đặc biệt để xử lý tố giác, tin báo, giải quyết các vụ xâm hại tình dục trẻ em

Báo cáo của các ngành tư pháp đều nêu tính chất đặc biệt của loại án này: nạn nhân là trẻ em nên khai báo không thống nhất; vụ việc xảy ra chỗ vắng vẻ nên thường không có người làm chứng; hành vi dâm ô ít khi để lại dấu vết; nhiều trường hợp gia đình không hợp tác do sợ ảnh hưởng đến tương lai con cái; khó khăn trong giám định tình dục...

Nhóm nghiên cứu cho hay, các báo cáo của Bộ Công an và của Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao phản ánh thực tiễn xử lý tố giác, tin báo và giải quyết loại án này thường có khó khăn và có vi phạm như: do nạn nhân và gia đình trình báo muộn nên dấu vết sinh học, dấu vết trên thân thể nạn nhân bị phân hủy hoặc không thu thập được; việc thu thập chứng cứ, khám nghiệm hiện trường, khám dấu vết trên thân thể, thu thập mẫu vật ban đầu thường chậm; việc giám định chậm; nhiều Điều tra viên, Kiểm sát viên thiếu kinh nghiệm làm việc với trẻ em nên tạo áp lực với các em...

Tới thời điểm này, quy trình tố tụng đặc biệt chưa được ban hành. Hiện các cơ quan hữu quan đang tiếp tục đề nghị Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành ban hành quy trình nghiệp vụ cụ thể.

Một số người dân tâm lý xấu hổ, mặc cảm… không tố cáo vụ việc

Ngoài ra, Nhóm nghiên cứu còn chỉ ra các "lỗ hổng" pháp lý khác như thiếu quy trình giám định đặc biệt đối với loại án xâm hại tình dục, nhất là xâm hại tình dục trẻ em; những hạn chế trong nhận thức pháp luật và trong nghiệp vụ như điều tra viên, kiểm sát viên chưa được đào tạo, tập huấn về kỹ năng làm việc với trẻ em dẫn đến kết quả điều tra, xử lý vụ việc chưa đạt yêu cầu. Một số điều tra viên, kiểm sát viên còn thụ động trong việc điều tra; xác định, thu thập chứng cứ còn sơ sài, nên dẫn đến việc đánh giá chứng cứ không chính xác, không sát với hành vi phạm tội mà bị can đã thực hiện… Hoặc do quá thận trọng, sợ oan sai, cầu toàn nên đã kéo dài thời gian giải quyết hoặc không xử lý được vụ án, gây dư luận không tốt.

Nhóm nghiên cứu cũng cho biết, vẫn còn hạn chế trong nhận thức, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và phối hợp của các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan chức năng, các ban, ngành, tổ chức xã hội…

Trong đó có cả việc nhận thức pháp luật của một bộ phận người dân còn hạn chế, tâm lý xấu hổ, mặc cảm, sợ ảnh hưởng đến tâm lý, tương lai của con em mình nên không tố cáo vụ việc tới cơ quan chức năng. Khi vụ việc xảy ra họ thường ngại tố giác, trình báo, nhiều trường hợp cam chịu, hoặc trình báo muộn, hoặc chấp nhận việc dàn xếp, xử lý nội bộ; sau một thời gian việc dàn xếp, thương lượng không đạt nguyện vọng mới làm đơn tố giác tội phạm thì lại rất khó khăn cho quá trình chứng minh tội phạm…/.

Thái Linh

NỔI BẬT TRANG CHỦ