• Đường dây nóng

    0901.22.33.66 - toasoan@toquoc.gov.vn

  • Liên hệ quảng cáo

    091.358.6788

Định hướng phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình

Thực hiện: Xuân Trường - Ảnh: Nam Nguyễn | 01/10/2024

(Tổ Quốc) - Ngày 1/10/2024, tại Hà Nội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức Hội thảo: "Định hướng phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình".

Hội thảo được tổ chức nhằm hưởng ứng Ngày Chuyển đổi số quốc gia (10/10), là diễn đàn để các chuyên gia, nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách, doanh nghiệp trao đổi, thảo luận về các vấn đề liên quan đến phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình.

Hội thảo có sự tham dự trực tiếp của hơn 150 đại biểu tại hội trường và hơn 1.000 lượt theo dõi trực tuyến tại địa chỉ: Hoithao.cntt.gov.vn.

Xây dựng một hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu hiện đại, linh hoạt, đáp ứng nhu cầu phát triển

Được sự ủy quyền của lãnh đạo Bộ VHTTDL phát biểu khai mạc Hội thảo, bà Nguyễn Thị Hoàng Lan - Giám đốc Trung tâm Công nghệ thông tin kiêm Tổng Biên tập Báo điện tử Tổ Quốc - Phó trưởng ban Ban chỉ đạo chuyển đổi số Bộ VHTTDL nhấn mạnh, chúng ta đang sống trong thời kỳ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nơi mà công nghệ thông tin và dữ liệu trở thành những yếu tố then chốt, quyết định sự phát triển bền vững của các ngành nghề. 

Định hướng phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình - Ảnh 1.

Bà Nguyễn Thị Hoàng Lan - Giám đốc Trung tâm Công nghệ thông tin kiêm Tổng Biên tập Báo điện tử Tổ Quốc - Phó trưởng ban Ban chỉ đạo chuyển đổi số Bộ VHTTDL phát biểu khai mạc Hội thảo.

Ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và gia đình – một ngành mang tính đa dạng và có sức lan tỏa sâu rộng, đóng vai trò quan trọng trong việc gìn giữ di sản văn hóa, phát triển du lịch, đồng thời nâng cao chất lượng đời sống thể chất và tinh thần của người dân – cũng không nằm ngoài dòng chảy của sự phát triển này.

Trong bối cảnh đó, hội thảo ngày hôm nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Với chủ đề "Định hướng phát triển hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình", Hội thảo được chia làm 2 phiên. 

Định hướng phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình - Ảnh 2.

Toàn cảnh Hội thảo

Trong Phiên sáng hội thảo sẽ tập trung vào nhóm chuyên đề về dữ liệu số, hạ tầng và bảo đảm an toàn. Nội dung phiên sáng đi sâu về kỹ thuật, với sự tham gia của các chuyên gia, đại diện rất giàu kinh nghiệm của các tập đoàn, doanh nghiệp về công nghệ thông tin. Cùng với đó là những chia sẻ từ thực tiễn của đại diện nhiều đơn vị đến từ các bộ, ngành và trong chính Bộ VHTTDL. Với nội dung này, hội thảo cho rằng đây là cơ hội rất quý với các lãnh đạo, cán bộ phụ trách công nghệ thông tin, chuyển đổi số của các đơn vị.

Còn tại Phiên chiều- phiên chính thức- các đại biểu sẽ được nghe các chỉ đạo, định hướng, hướng dẫn từ cơ quan điều phối chung hoạt động Mạng lưới chuyển đổi số- Bộ Thông tin và Truyền thông, từ cơ quan thường trực triển khai Đề án 06- Bộ Công an. Cùng với đó là các chia sẻ về kinh nghiệm xây dựng, triển khai các hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu tại các đơn vị trong Bộ VHTTDL. Bên cạnh đó là những tham khảo, học hỏi kinh nghiệm về mô hình triển khai cơ sở dữ liệu liên thông từ trung ương tới địa phương và cơ hội tiếp cận với các giải pháp mà đại diện các tập đoàn, doanh nghiệp công nghệ thông tin trong và ngoài nước đưa ra.

Định hướng phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình - Ảnh 2.

Các đại biểu dự hội thảo phiên sáng 1/10.

Theo bà Nguyễn Thị Hoàng Lan, trên thực tế, công tác quản lý thông tin và dữ liệu trong ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch hiện còn gặp nhiều khó khăn, từ việc lưu trữ dữ liệu phân tán, chưa đồng bộ, cho đến hạn chế trong việc khai thác và kết nối dữ liệu giữa các đơn vị. 

Do đó, xây dựng một nền tảng dữ liệu tập trung và hiệu quả không chỉ giúp cải thiện trong công tác quản lý mà còn tạo điều kiện cho việc phát triển các dịch vụ du lịch thông minh, bảo tồn phát huy giá trị di sản văn hóa và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành trên trường quốc tế.

"Mục tiêu của chúng ta là cùng nhau thảo luận và đề xuất những giải pháp chiến lược, những định hướng, các kinh nghiệm nhằm xây dựng một hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu hiện đại, linh hoạt và đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành", bà Nguyễn Thị Hoàng Lan bày tỏ.

Công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc quản trị dữ liệu và bảo mật dữ liệu

Tại hội thảo, trình bày tham luận về triển khai công tác bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ đối với các hệ thống thuộc ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch, ThS Phạm Tuấn An - Cục An toàn Thông tin, Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, hiện nay một số sự cố an toàn thông tin mạng, đặc biệt là các sự cố tấn công mã độc mã hóa tống tiền (ransomware) đã gây thiệt hại và làm gián đoạn dịch vụ trực tuyến của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. 

Ở Việt Nam, năm 2024, hàng loạt các vụ các vụ tấn công mã hóa dữ liệu đòi tiền chuộc: VNDirect, PVOil, VN Post gây thiệt hại hàng trăm tỷ VNĐ.

Định hướng phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình - Ảnh 3.

ThS Phạm Tuấn An - Cục An toàn Thông tin, Bộ Thông tin và Truyền thông trình bày tham luận về triển khai công tác bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ.

Theo ông Phạm Tuấn An, công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc quản trị dữ liệu và bảo mật dữ liệu, giúp các tổ chức quản lý và sử dụng dữ liệu một cách hiệu quả và an toàn. Vai trò chính của công nghệ trong quản trị dữ liệu gồm: Tự động hóa quy trình; Bảo mật dữ liệu;  Quản lý chất lượng dữ liệu;  Phân tích dữ liệu;  Tuân thủ quy định và Tích hợp dữ liệu.

Theo đại diện Cục An toàn Thông tin, Bộ Thông tin và Truyền thông, để tăng cường hiệu quả công tác bảo đảm an toàn thông tin và phục hồi nhanh hoạt động sau sự cố, bên cạnh việc triển khai đầy đủ các quy định của pháp luật về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành công văn số 2516/BTTTT-CATTT ngày 27/6/2024 của Bộ Thông tin và Truyền thông về Hướng dẫn một giải pháp tăng cường bảo đảm an toàn hệ thống thông tin, hướng dẫn triển khai 06 giải pháp trọng gồm:

Định kỳ thực hiện sao lưu dữ liệu ngoại tuyến “offline”. 

Triển khai giải pháp để sẵn sàng phục hồi nhanh hoạt động của hệ thống thông tin khi gặp sự cố, đưa hoạt động của hệ thống thông tin trở lại bình thường trong vòng 24 tiếng hoặc theo yêu cầu nghiệp vụ. 

Triển khai các giải pháp, đặc biệt là giải pháp giám sát an toàn thông tin, để ngăn ngừa, kịp thời phát hiện sớm nguy cơ tấn công mạng đối với cả 3 giai đoạn: xâm nhập vào hệ thống; nằm gián điệp trong hệ thống; khởi tạo quá trình phá hoại hệ thống. 

Phân tách, kiểm soát truy cập giữa các vùng mạng và chuyển đổi, nâng cấp các ứng dụng, giao thức, kết nối lạc hậu, không còn được hỗ trợ kỹ thuật sang phương án sử dụng các nền tảng, ứng dụng để giảm thiểu nguy cơ tấn công mạng leo thang.

Tăng cường giám sát, quản lý các tài khoản quan trọng, tài khoản quản trị để phòng ngừa, giảm thiểu thiệt hại trong trường hợp kẻ tấn công có được tài khoản quản trị.

Rà soát, khắc phục và không để xảy ra các lỗi cơ bản dẫn đến mất an toàn hệ thống thông tin. 

Phát triển dữ liệu và quy hoạch dữ liệu là yếu tố then chốt trong việc xây dựng xã hội số

Tham luận về định hướng xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch, ThS Lê Mạnh Hùng - Trung tâm CNTT, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho biết, Ngành VHTTDL thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực như di sản, văn hóa nghệ thuật, thể thao, du lịch, bản quyền tác giả, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, văn hóa cơ sở và các hoạt động giải trí .... Đây là một ngành mang tính đa dạng, bao quát, có sức lan tỏa rộng và ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác như kinh tế, xã hội, chính trị và môi trường. 

Theo số liệu khảo sát năm 2023, trong 25 đơn vị khảo sát trực tiếp phần lớn các đơn vị vẫn chưa xây dựng cơ sở dữ liệu mà chủ yếu dữ liệu lưu trữ dạng thô, vật lí như giấy, văn bản, tệp, ổ cứng, chưa được số hóa. Trong 60 đơn vị khảo sát gián tiếp, có 58 đơn vị đã ứng dụng phần mềm dùng chung của Bộ vào trong công việc quản lý, điều hành như quản lý thông tin CCVC, quản lý điều hành tác nghiệp gồm hệ thống voffice và hệ thống email ... Nhiều đơn vị lưu trữ dữ liệu dạng thô như tài liệu, văn bản, sách, báo, đĩa DVD, đĩa CD, đĩa cứng, USB và một số dữ liệu ở dạng số hóa...

Từ những số liệu thống kê thực tế cho thấy công tác quản lý thông tin và dữ liệu trong ngành VHTTDL vẫn còn nhiều hạn chế, do đó cần xây dựng CSDL tập trung để lưu trữ và sử dụng.

Định hướng phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình - Ảnh 4.

ThS Lê Mạnh Hùng - Trung tâm CNTT, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trình bày tham luận về định hướng xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Theo ông Lê Mạnh Hùng, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, việc xây dựng hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch không chỉ là một xu hướng mà còn là cần thiết để phát triển ngành. Việc quản lý thông tin và dữ liệu một cách hiệu quả sẽ giúp ngành VHTTDL tối ưu hóa hoạt động, nâng cao chất lượng dịch vụ, thu hút du khách và đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội.

Để xây dựng hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cần có sự đồng thuận và hợp tác chặt chẽ từ các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân hoạt động trong ngành. Việc triển khai chuyển đổi số trong công tác quản lý ngành sẽ mang lại nhiều lợi ích và tạo tiềm năng phát triển lớn.

Những định hướng xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, phát triển dữ liệu và quy hoạch dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch không chỉ là một phần của chuyển đổi số mà còn là một yếu tố then chốt trong việc xây dựng xã hội số, công dân số và phát triển kinh tế số bền vững.

Thực hiện dịch vụ công trực tuyến toàn trình tại bất cứ đâu có máy tính kết nối Internet

Tham luận về xây dựng và triển khai hệ thống quản lý vận tải đường bộ, ông Phùng Văn Trọng - Trung tâm Công nghệ thông tin - Bộ Giao thông vận tải cho biết, Hệ thống dịch vụ công lĩnh vực vận tải đường bộ là hệ thống công nghệ thông tin cung cấp dịch vụ công trực tuyến đối với lĩnh vực vận tải đường bộ, triển khai thống nhất trên toàn quốc.

Hệ thống do Trung tâm Công nghệ thông tin - Bộ Giao thông vận tải (GTVT) đề xuất mô hình, quản lý, vận hành, triển khai trên toàn quốc từ ngày 1/1/2017.

Hệ thống dịch vụ công lĩnh vực vận tải đường bộ được thiết kế, xây dựng theo mô hình triển khai từ trung ương đến địa phương có phạm vi sử dụng trên toàn quốc. Hệ thống quản lý thông tin trong 4 nhóm dữ liệu chính là: Giấy phép kinh doanh vận tải; Phù hiệu, biển hiệu ô tô; Tuyến vận tải hành khách cố định và Hợp đồng, giấy vận tải, lệnh vận chuyển. Các ứng dụng được phát triển riêng biệt để sử dụng cho hai nhóm đối tượng người dùng chính của hệ thống là doanh nghiệp và cán bộ quản lý của cơ quan nhà nước.

Định hướng phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình - Ảnh 5.

Ông Phùng Văn Trọng - Trung tâm Công nghệ thông tin - Bộ Giao thông vận tải.

Nói về sự nổi trội, tính năng sáng tạo và đột phá so với trước khi chưa áp dụng việc chuyển đổi số, ông Phùng Văn Trọng cho biết, doanh nghiệp thay vì đến cơ quan công quyền để nộp hồ sơ hoặc gửi qua đường bưu điện, người dân, doanh nghiệp, các đơn vị kinh doanh vận tải có thể thực hiện dịch vụ công trực tuyến toàn trình tại bất cứ đâu có máy tính kết nối Internet.

Đối với đơn vị quản lý, việc tiếp nhận hồ sơ hoàn toàn trực tuyến (không tiếp nhận hồ sơ giấy) và việc xử lý thủ tục hành chính, thẩm định cấp phép hoàn toàn điện tử đồng thời việc kết nối các CSDL, như CSDL đăng ký doanh nghiệp của Bộ KH&ĐT, CSDL giám sát hành trình, CSDL camera, CSDL đăng kiểm phương tiện... giúp cơ quan quản lý giải quyết thủ tục nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm thời gian, ngân sách nhà nước.

Cập nhật dữ liệu thường xuyên để đảm bảo thông tin luôn mới nhất, đầy đủ và đúng nhất

Trình bày tham luận về một số kinh nghiệm trong quá trình triển khai thu thập, xây dựng, khai thác và quản lý cơ sở dữ liệu về hiện vật bằng phần mềm quản lý hiện vật tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, ông Nguyễn Đức Kiên - Phó Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam cho biết, trong tổng số gần 20 nghìn hiện vật đang được Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam lưu giữ cho đến năm 2022 vẫn được quản lý, khai thác một cách thủ công bằng hệ thống sổ đăng ký hiện vật, sổ phân loại hiện vật các loại.

Những hiện vật này một phần đã có đủ thông tin cơ bản khi đăng ký, tuy nhiên vẫn còn hiện vật đang thiếu thông tin hoặc thông tin chưa chính xác, chưa thống nhất giữa sổ đăng ký và thông tin giới thiệu trên trưng bày khiến cho công tác quản lý, khai thác gặp nhiều khó khăn.

Xác định cơ sở dữ liệu về hiện vật là nền tảng của công tác số hoá, là xương sống để vận hành và vận hành có hiệu quả phần mềm quản lý hiện vật, các cán bộ chuyên môn của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã tiến hành thu thập, xây dựng CSDL về hiện vật từ hồ sơ, tài liệu, sổ đăng ký hiện vật.

Các thông tin (dữ liệu) này sau khi được tổng hợp sẽ tiến hành kiểm tra, đối chiếu và chọn lọc để có được dữ liệu chuẩn xác nhất và tiến hành nhập vào phần mềm quản lý hiện vật theo trình tự các trường thông tin đã xây dựng sẵn trên phần mềm quản lý hiện vật theo yêu cầu khai thác, sử dụng và quản lý hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Định hướng phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình - Ảnh 6.

Ông Nguyễn Đức Kiên - Phó Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Theo ông Nguyễn Đức Kiên, phần mềm quản lý hiện vật sau khi đưa vào sử dụng, khai thác đã mang lại nhiều hiệu quả tích cực, đáp ứng tốt yêu cầu trong công tác quản lý hiện vật cũng như khai thác và phát huy CSDL về hiện vật

Phó Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam cho rằng, để thực hiện tốt chuyển đổi số một cách đúng hướng, hiệu quả cần rất nhiều yếu tố, điều kiện, trong đó cần quan tâm hơn đến công tác xây dựng Kế hoạch (Đề án, Dự án...) cần bám sát các văn bản của Bộ VHTTDL và các cơ quan chuyên môn để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ.

Việc thu thập thông tin, làm sạch cơ sở dữ liệu phải được ưu tiên, tiến hành sớm và kỹ để đảm bảo tính chính xác. Đối với các bảo tàng, việc tổng kiểm kê khoa học là một trong những khâu quan trọng để có được CSDL đầy đủ, chính xác bên cạnh việc thu thập, xác minh thông tin từ các nguồn ngoài bảo tàng.

Tiến hành nghiên cứu kỹ, tham khảo các đơn vị đi trước để xây dựng phần mềm phù hợp với nhu cầu của đơn vị, đáp ứng yêu cầu của cơ quan quản lý; Đầu tư nhân lực, đào tạo nâng cao về công nghệ thông tin đồng thời với trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị và triển khai quyết liệt để đem lại kết quả, sản phẩm cụ thể và thực hiện cập nhật dữ liệu thường xuyên để đảm bảo thông tin luôn mới nhất, đầy đủ và đúng nhất.

Giải quyết thách thức trong việc triển khai hệ thống cơ sở dữ liệu du lịch

Trình giải pháp xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu ngành Du lịch, ông Lê Văn Anh - Giám đốc sản phẩm Lĩnh vực Văn hóa - Thể Thao - Du lịch – Tập đoàn VNPT cho biết, tại các địa phương việc triển khai hệ thống cơ sở dữ liệu du lịch đang diễn ra mạnh mẽ, nhưng vẫn gặp một số thách thức nhất định như:

Thiếu đồng bộ trong hạ tầng công nghệ, một số địa phương chưa đủ nguồn lực để đầu tư hệ thống công nghệ đồng bộ với các tiêu chuẩn quy định. Khó khăn trong việc thu thập dữ liệu: Nhiều địa phương gặp khó khăn trong việc thống kê, thu thập dữ liệu từ các doanh nghiệp du lịch. Vấn đề bảo mật và quản lý dữ liệu, đảm bảo tính an toàn, bảo mật cho hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin khách hàng là thách thức cần giải quyết.

Định hướng phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình - Ảnh 7.

Ông Lê Văn Anh - Giám đốc sản phẩm Lĩnh vực Văn hóa - Thể Thao - Du lịch – Tập đoàn VNPT.

Giám đốc sản phẩm Lĩnh vực Văn hóa - Thể Thao - Du lịch – Tập đoàn VNPT nêu rõ xu hướng Chuyển đổi số trong ngành du lịch, vai trò dữ liệu trong chuyển đổi và 5 kiến nghị đề xuất với thực tiễn xây dựng CSDL của ngành bao gồm: Đẩy mạnh xây dựng cơ sở dữ liệu thống nhất, liên thông toàn quốc; Tăng cường số hóa các tài nguyên du lịch và văn hóa; Ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và phân tích dữ liệu lớn (Big Data) trong quản lý và dự báo du lịch; Bảo mật và bảo vệ dữ liệu du khách; Hỗ trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp du lịch vừa, nhỏ (SMEs)

Cần có những mục tiêu và lộ trình rõ ràng

Tham luận về xây dựng cơ sở dữ liệu, nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình chuyển đổi số tại Viện Phim Việt Nam, ThS. Phạm Minh Trường Trưởng phòng Kỹ thuật – Viện phim Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho biết, nhận thức được tầm quan trọng của chuyển đổi số nói chung cũng như giá trị của CSDL nói riêng, Viện Phim Việt Nam nhiều năm qua bước đầu đã có những nhiệm vụ, công việc tham gia vào công cuộc đó.

Viện Phim Việt Nam là cơ quan lưu trữ hình ảnh động quốc gia. Hiện nay kho phim của Viện đang lưu giữ gần 80.000 cuốn phim nhựa. Nhằm mục đích lưu trữ, bảo quản lâu dài các tư liệu trên đồng thời khai thác, phổ biến rộng rãi tới công chúng, Viện Phim Việt Nam đã có kế hoạch, lộ trình nhằm số hóa các tư liệu quý giá đó. Phim đã số hóa giúp cho các công tác tra cứu đơn giản, thuận tiện hơn, tăng khả năng truy xuất tìm kiếm thông tin ở bất kỳ đâu vào bất cứ thời điểm nào một cách nhanh chóng, dễ dàng; thuận lợi trong việc chia sẻ nguồn tài nguyên thông tin; có khả năng chỉnh sửa, tái sử dụng hoặc chuyển đổi sang loại dữ liệu số khác.

Tương tự công tác số hóa phim, Viện Phim Việt Nam cũng tiến hành số hóa các tài liệu cấp 2 nhằm lưu trữ bảo quản an toàn, lâu dài các tư liệu gốc, hạn chế tối đa việc đưa tài liệu gốc ra phục vụ, đồng thời việc lưu trữ trên bản số hóa giúp cho các nhà nghiên cứu, người yêu mến điện ảnh dễ dàng tra cứu, tiếp cận tài liệu. Nhờ đó, phát huy tối đa công tác phổ biến, quảng bá các tư liệu lưu trữ.

Định hướng phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình - Ảnh 8.

ThS. Phạm Minh Trường Trưởng phòng Kỹ thuật – Viện phim Việt Nam.

Tuy nhiên, theo ông Phạm Minh Trường, các trang thiết bị tuy được đầu tư nhưng đến nay phần lớn đã lạc hậu. Một số linh kiện của máy quét phim xuống cấp gây ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ thực hiện công việc. Máy quét phim được sử dụng từ lâu nhưng đến nay chưa được bảo trì do máy là thiết bị chuyên dụng, được nhập khẩu hoàn toàn từ các nước phát triển.

Việc bảo trì, sửa chữa phải thuê chuyên gia nước ngoài, tuy nhiên chi phí cho công việc trên rất lớn. Hãng sản xuất máy quét phim đã thay đổi chủ nhiều lần nên việc bảo trì, bảo dưỡng, thay thế linh kiện thiết bị gặp rất nhiều khó khăn.

Công tác lưu trữ và quản lý dữ liệu vẫn còn thủ công do chưa có hệ thống lưu trữ dữ liệu chuyên dụng cũng như phần mềm quản lý dữ liệu hiện đại, phù hợp với đặc thù công việc.

Phim nhựa, tài liệu cấp 2 vẫn tiếp tục được bổ sung hàng năm, số lượng số hóa lớn tuy nhiên nhân lực, trang thiết bị chưa đáp ứng đủ. Kho phim tại Viện Phim Việt Nam đang lưu trữ gần 80.000 cuốn phim, trong khi hàng năm Viện chỉ số hóa được từ 600-700 cuốn phim. Với trang thiết bị và nhân lực hiện tại, để số hóa được hết kho phim đòi hỏi thời gian vô cùng lớn.

Tính bảo mật dữ liệu của tư liệu số hóa cũng là vấn đề cần được đặt ra, việc sao chép, chia sẻ dữ liệu, để lọt thông tin hoàn toàn có thể xảy ra, thậm chí có thể chỉ do vô ý của cá nhân trong đơn vị, nếu không được kiểm soát chặt chẽ.

Từ thực tiễn tại Viện Phim Việt Nam nêu trên có thể rút ra một số kinh nghiệm: Việc xây dựng, khai thác, sử dụng hiệu quả hệ thống CSDL nói chung là rất quan trọng, cần thiết và cần có những mục tiêu và lộ trình rõ ràng.

Việc xây dựng CSDL cần chú trọng gắn kết chặt chẽ với bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng, an ninh quốc gia, bảo vệ thông tin cá nhân; Tăng cường giao lưu, hợp tác với các cơ quan, đơn vị trong và ngoài nước để chia sẻ kinh nghiệm trong công tác số hóa, khai thác, chia sẻ, quản lý dữ liệu.

Xây dựng, phát triển văn hóa số

Trình bày các giải pháp xây dựng các hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu, ông Lê Việt Hưng - Chuyên gia tư vấn giải pháp - Tổng Công ty giải pháp doanh nghiệp Viettel cho biết, trong những năm gần đây, thuật ngữ cơ sở dữ liệu (CSDL) đã trở nên quen thuộc trong nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội và trong các cơ quan nhà nước.

Đối với ngành VHTTDL, định hướng xuyên suốt là lấy người dân và doanh nghiệp là trung tâm của chuyển đổi số; lấy phát triển con người, bảo đảm và cải thiện dân sinh làm mục đích; minh bạch hóa và tăng cường sự tham gia của người dân và doanh nghiệp vào hoạt động của cơ quan nhà nước. Ngành VHTTDL chuyển đổi số với việc ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh điện tử để mang lại hiệu quả lớn cho công tác quản lý ngành.

Định hướng phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình - Ảnh 9.

Ông Lê Việt Hưng - Chuyên gia tư vấn giải pháp- Tổng Công ty giải pháp doanh nghiệp Viettel.

Theo đó, ứng dụng dữ liệu dân cư và định danh điện tử phù hợp cho các đối tượng quản lý của ngành VHTTDL như: nghệ sĩ (diễn viên, người mẫu...), nhà văn, họa sĩ, vận động viên, huấn luyện viên, trọng tài, cộng tác viên thể dục, thể thao quần chúng, tác giả (trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả), hộ gia đình, phòng chống bạo lực, gia đình văn hóa... Từ đó xây dựng, phát triển văn hóa số, góp phần hình thành thế hệ công dân số cho tương lai hướng đến kinh tế số và xã hội số trong ngành VHTTDL.

Trong năm 2023, Bộ VHTTDL đã ban hành Quyết định số 4030/QÐ- BVHTTDL ngày 26/12/2023 về Danh mục cơ sở dữ liệu (CSDL) của Bộ VHTTDL. Theo Quyết định này, Danh mục CSDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch gồm: danh mục CSDL dùng chung và danh mục CSDL chuyên ngành. Trong đó, danh mục CSDL dùng chung có 17 CSDL; Danh mục CSDL chuyên ngành có 38 CSDL. Như vậy có thể thấy rằng, Bộ VHTTDL đã có sự quan tâm chú trọng vào dữ liệu ngành nói chung và các CSDL nói riêng.

Theo ông Lê Việt Hưng, chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trong mọi mặt, mọi lĩnh vực của cuộc sống.

"Chúng ta đang hội đủ các yếu tố để đẩy nhanh và triển khai thành công Chuyển đổi số ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Với sự lãnh đạo sáng suốt của lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, sự đồng lòng, chung sức của các doanh nghiệp Công nghệ, chúng ta tin tưởng rằng trong các năm tiếp theo, chúng ta sẽ hoàn thành các mục tiêu chuyển đổi số của ngành đã đặt ra, và hoạch định ra tầm nhìn, chiến lược và kế hoạch hành động cho giai đoạn tiếp theo", ông Lê Việt Hưng bày tỏ.

Dữ liệu luôn là khởi đầu quan trọng đảm bảo sự khoa học và hiệu quả của nghiên cứu

Tham luận về vấn đề quản lý thông tin về di tích và công tác bảo tồn di tích dạng dữ liệu số hóa đóng góp vào cơ sở dữ liệu ngành văn hóa, TS. Chu Thu Hường, Viện Bảo tồn di tích cho biết, đối với mọi ngành và lĩnh vực, dữ liệu luôn là khởi đầu quan trọng đảm bảo sự khoa học và hiệu quả của nghiên cứu.

Là Viện nghiên cứu đầu ngành trong lĩnh vực bảo tồn di tích, Viện luôn coi trọng công tác tư liệu và xây dựng cơ sở dữ liệu cho bảo tồn và trùng tu di tích, Viện Bảo tồn di tích đã có được kho tư liệu khá đồ sộ đóng góp vào cơ sở dữ liệu của ngành Văn hóa.

Quá trình thực hiện số hóa di tích, di sản luôn được triển khai một cách toàn diện từ việc khảo sát, tập hợp, xây dựng cơ sở dữ liệu hồ sơ phục vụ số hóa, đến việc xây dựng ngân hàng dữ liệu về di tích luôn được Viện thực hiện bài bản, theo quy chuẩn phù hợp.

Định hướng phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình - Ảnh 10.

TS. Chu Thu Hường, Viện Bảo tồn di tích trình bày tham luận.

Bên cạnh đó, Viện cũng nỗ lực thực hiện tích hợp, chia sẻ dữ liệu với các bên liên quan thông qua việc xây dựng cập nhật Ngân hàng dữ liệu về di tích.

Tuy nhiên, việc triển khai chuyển đổi số trong lĩnh vực bảo tồn di tích còn khá mới mẻ, Viện chưa có đội ngũ nguồn nhân lực thành thạo công nghệ thông tin để đáp ứng công việc và thách thức lớn nhất là vấn đề kinh phí thực hiện các nội dung số hóa, chuyển đổi số và tích hợp các công nghệ mới trong lĩnh vực bảo tồn di tích.

Trùng tu và bảo tồn di tích là một ngành khoa học đòi hỏi tính liên ngành cao, cơ sở dữ liệu của ngành là sự tích hợp của nhiều kiến thức chuyên ngành: lịch sử, khảo cổ, nhân học, kiến trúc, mỹ thuật, hóa học, hán nôm...Tương tự, với phổ ngành rộng lớn, ngành Văn hóa đòi hỏi sự tích hợp và chia thông tin dữ liệu chung và dữ liệu của nhiều chuyên ngành.

Vì thế, Viện Bảo tồn di tích nói riêng và các cơ quan nghiên cứu, quản lý khác trong Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hiện nay, bên cạnh nỗ lực xây dựng cơ sở dữ liệu ngành của mỗi đơn vị thì sự chia sẻ, tích hợp thông tin dữ liệu của các ngành khác nhau là vô cùng quan trọng để các ban ngành, bộ phận có thể hỗ trợ lẫn nhau trong nghiên cứu và quản lý.

Xây dựng CSDL gắn kết chặt chẽ với bảo đảm an toàn thông tin

Tham luận về giải pháp kỹ thuật xây dựng các hệ thống công nghệ thông tin và đảm bảo an toàn thông tin, ông Nguyễn Thanh Hải - Giám đốc Công nghệ - Công ty Cổ phần Netnam cho biết, trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin (CNTT), việc xây dựng các hệ thống CNTT mạnh mẽ và đảm bảo an toàn thông tin (ATTT) đã trở thành yếu tố quan trọng đối với mọi tổ chức, đặc biệt trước tình trạng các cuộc tấn công an ninh mạng tại Việt Nam hiện nay đang ngày một nhiều và để lại hậu quả rất lớn đối với các hệ thống, tổ chức. 

Mối đe dọa từ các cuộc tấn công mạng ngày càng tinh vi, đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp kỹ thuật toàn diện. Bộ Thông tin và Truyền thông đã có nhiều công văn, văn bản hướng dẫn các đơn vị thực thi đảm bảo ATTT cho các hệ thống trọng điểm, dựa trên các Nghị định của Bộ Thông tin và Truyền thông cũng như Chính phủ về đảm bảo ATTT.

Định hướng phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình - Ảnh 11.

Ông Nguyễn Thanh Hải - Giám đốc Công nghệ - Công ty Cổ phần Netnam.

Theo ông Nguyễn Thanh Hải, hiện nay việc xây dựng hệ thống CNTT và đảm bảo ATTT của Bộ VHTTDL đã tuân theo yêu cầu của cơ quan chức năng nhưng với nhu cầu phát triển mở rộng hệ thống, một số thành phần sẽ cần nâng cấp mở rộng như hệ thống Firewall, máy chủ để đáp ứng nhu cầu của người dùng, đi kèm với đấy là lượng dữ liệu ngày càng tăng và ngày càng có chất lượng, các giải pháp đảm bảo về mặt dữ liệu như DLP cần cân nhắc triển khai thêm. 

Việc đảm bảo ATTT không chỉ là công nghệ mà còn là cảnh báo sớm, quy trình và con người, việc này là một quá trình liên tục và đòi hỏi sự đầu tư nghiêm túc cả về mặt kỹ thuật lẫn con người. Bên cạnh đó, sự chú trọng vào đào tạo, nâng cao nhận thức và xây dựng chính sách ATTT cũng là những yếu tố quyết định đến sự thành công của một hệ thống CNTT an toàn và hiệu quả. 

Phát triển hạ tầng công nghệ thông tin sẽ tạo nền tảng vững chắc cho sự đổi mới và tăng trưởng bền vững 

Tham luận về định hướng và Giải pháp xây dựng Hạ tầng Công nghệ thông tin của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, ông Lã Xuân Tùng - Giám đốc phụ trách Công nghệ - Công ty Cổ phần Tập đoàn Netcorp cho biết, việc xây dựng và phát triển hạ tầng công nghệ thông tin là một quá trình phức tạp và đầy thách thức, đòi hỏi sự chú ý và đầu tư kỹ lưỡng vào nhiều khía cạnh khác nhau.  

Định hướng phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình - Ảnh 12.

Ông Lã Xuân Tùng - Giám đốc phụ trách Công nghệ - Công ty Cổ phần Tập đoàn Netcorp

Để thành công, các tổ chức cần giải quyết hiệu quả các vấn đề về tích hợp và tương thích hệ thống, quản lý chi phí, bảo mật và an ninh, cũng như quản lý dự án và lịch trình. Đảm bảo khả năng mở rộng và tính linh hoạt của hệ thống, đào tạo nhân viên và quản lý nguồn nhân lực, cùng với thiết lập các cơ chế dự phòng và quản lý dữ liệu là những yếu tố quan trọng không thể thiếu. 

Áp dụng các biện pháp khắc phục phù hợp và duy trì sự linh hoạt trong việc điều chỉnh kế hoạch sẽ giúp xây dựng một hạ tầng công nghệ thông tin vững chắc, hiệu quả và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai. Sự đầu tư đúng đắn và chiến lược hợp lý trong việc phát triển hạ tầng công nghệ thông tin sẽ tạo nền tảng vững chắc cho sự đổi mới và tăng trưởng bền vững của tổ chức. 

Tại phiên thảo luận buổi sáng, các đại biểu đã thảo luận, trao đổi bàn các giải pháp để xây dựng và phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình.

Sau khi lắng nghe các phát biểu tham luận và các ý kiến thảo luận, trao đổi, phát biểu kết thúc phiên buổi sáng, bà Nguyễn Thị Hoàng Lan - Giám đốc Trung tâm Công nghệ thông tin kiêm Tổng Biên tập Báo điện tử Tổ Quốc - Phó trưởng ban Ban chỉ đạo chuyển đổi số Bộ VHTTDL cho biết, trải qua phiên làm việc buổi sáng, chúng ta đã đề cập và bàn thảo các nhóm chuyên đề về dữ liệu số, hạ tầng và đảm bảo an toàn thông tin với nhiều báo cáo tham luận của các cơ quan chuyên môn và các ý kiến phân tích, thảo luận sôi nổi và sâu sắc của các chuyên gia, các nhà quản lý và doanh nghiệp. 

Đây là nhóm vấn đề cốt lõi và còn nhiều thách thức, do vậy những định hướng, kinh nghiệm, kiến nghị, giải pháp và cả những cơ hội trong việc xây dựng dữ liệu số, hạ tầng và bảo đảm an toàn thông tin mà quý vị chia sẻ đã mở ra nhiều góc nhìn quan trọng đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay.

Định hướng phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình - Ảnh 13.

Bà Nguyễn Thị Hoàng Lan phát biểu kết thúc phiên thảo luận buổi sáng.

"Tôi tin rằng, các ý kiến đóng góp từ quý vị đại biểu, các nhà quản lý và doanh nghiệp sẽ là tiền đề để có những định hướng, chiến lược đúng đắn và kịp thời nhằm thúc đẩy quá trình hiện đại hóa hệ thống thông tin và dữ liệu của ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình trong tương lai.

Với tinh thần đó, phiên hội thảo chính thức vào buổi chiều với rất nhiều thông tin quan trọng, giá trị và ý nghĩa, được chắt lọc và phân tích từ các cơ quan chuyên môn của các bộ ngành, các địa phương, các tổ chức, doanh nghiệp liên quan. Đây sẽ là cơ hội để xây dựng những định hướng dài hạn, góp phần tạo ra bước đột phá cho ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình trong những năm tới", bà Nguyễn Thị Hoàng Lan bày tỏ. 

*Hội thảo: "Định hướng phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình" sẽ tiếp tục phiên hội thảo chính thức vào 13h30 chiều nay


NỔI BẬT TRANG CHỦ