(Tổ Quốc) - Ngày 16/10/2017, tại Hà Nội, Hiệp hội Giấy và bột giấy Việt Nam (VPPA) phối hợp với Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức hội Thảo Ngành Sản xuất giấy Việt Nam: Giải pháp chính sách hướng tới phát triển bền vững.
Nhiều tiềm năng phát triển bền vững
Trong lịch sử tăng trưởng các ngành công nghiệp Việt Nam, ngành giấy có bước phát triển mạnh mẽ, với mức tăng trưởng bình quân 11% vào giai đoạn 2000-2007 và 16% giai đoạn từ 2007 đến 2016.
Trong cuộc sống, giấy là sản phẩm thiết yếu và là ngành sản xuất đóng vai trò trọng yếu, đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Với việc đẩy mạnh phát triển sản xuất, ngành tạo công ăn việc làm cho hàng vạn lao động tại các DN sản xuất, đồng thời cộng hưởng để phát triển các ngành kinh tế khác: tối ưu hoá khối lượng lớn gỗ rừng trồng của lâm nghiệp, phủ xanh đất trống đồi trọc và hỗ trợ người trồng rừng; tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành chế biến phát triển…
Theo dự kiến, nhu cầu giấy của Việt Nam trong thời gian tới có mức tăng trưởng từ 8-10%/năm, hàng năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu gần 2 triệu tấn giấy cho nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng và cho sản xuất. Riêng đối với giấy bao bì, nhu cầu sử dụng giấy bao bì cho sản phẩm tiêu thụ trong nước và xuất khẩu có mức tăng trưởng rất lớn. Vì vậy việc tăng năng lực sản xuất đối với giấy bao bì còn nhiều tiềm năng để phát triển. Với nhu cầu lớn đáng kể và vai trò đa dạng đối với kinh tế, sản xuất của ngành giấy dự kiến đóng góp khoảng khoảng 1,5% giá trị GDP, kim ngạch xuất khẩu dự kiến đạt trên 1 tỷ USD.
Giấy tái chế - nguồn tài nguyên trọng yếu
Giấy tái chế - nguyên liệu đầu vào trọng yếu trong ngành công nghiệp tái chế, một ngành có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Việc tái sử dụng phế liệu giấy làm nguyên liệu mang lại nhiều lợi ích cho DN và xã hội, như giảm khai thác tài nguyên, giảm đi việc chặt phá rừng. Riêng với các DN, việc tận dụng phế liệu để sản xuất giúp giảm chi do giá thành phế liệu thấp, giảm thiểu chi phí để xử lý so với việc phát thải phế liệu ra môi trường. Do đó, trong sản xuất công nghiệp, không riêng ngành giấy mà rất nhiều ngành đã và đang sử dụng phế liệu trong sản xuất, sản phẩm đã qua sử dụng làm nguyên liệu cho sản xuất như ngành nhựa, ngành giấy, ngành thủy tinh, ngành thép…
Hiện nguồn cung giấy phế liệu trong nước không thể đáp ứng được nhu cầu sản xuất của các DN, dẫn đến nhu cầu nhập khẩu số lượng lớn nhằm phục vụ cho sản xuất trong nước. Theo ước tính sơ bộ, tỷ lệ thu gom giấy tại Việt Nam chỉ đạt dưới ngưỡng trung bình thế giới, khoảng dưới 40% trước khi đưa vào phân loại và xử lý.
Ông Phan Chí Dũng, nguyên Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nhẹ, Bộ Công thương cho biết: "70% sản lượng giấy của Việt Nam sản xuất từ nguyên liệu từ giấy phế liệu. Trong đó chỉ gần 40% được thu gom trong nước, còn lại phải nhập khẩu. Đối với các DN tái chế giấy chuyên nghiệp, có năng lực tái chế tốt như các DN có vốn đầu tư nước ngoài, họ rất cần nguồn nguyên liệu giấy và rõ ràng nhập khẩu là một giải pháp bắt buộc trong bối cảnh trong nước không đủ nguyên liệu sản xuất".
Mặc dù có vai trò trọng yếu trong việc phát triển công nghiệp, tại Việt Nam, nguyên liệu giấy tái chế và việc nhập khẩu nguyên liệu này vẫn còn gặp nhiều thách thức về mặt quản lý, đặt ra bài toán được – mất giữa sản xuất và môi trường.
Trao đổi về dự thảo sửa đổi quyết định 73/2014/QĐ-TTg quy định danh mục phế liệu được phép nhập khẩu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất, đa phần ý kiến đều ghi nhận việc siết chặt quản lý phế liệu này là cần thiết khi có một số DN đã lợi dụng những "kẽ hở" trong quản lý nhập khẩu phế liệu cho sản xuất để nhập "rác" vào Việt Nam, gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, nhiều nhóm phế liệu giấy như giấy hỗn hợp vẫn là nguyên liệu sản xuất quan trọng của các ngành công nghiệp tái chế nhưng có khả năng bị đưa ra khỏi danh mục được phép nhập khẩu trong tương lai gần, dẫn đến nhiều vấn đề tồn đọng cho doanh nghiệp.
Ông Phạm Đình Thưởng, chuyên gia phân tích chính sách cho rằng: "Nếu loại bỏ nguồn nguyên liệu tái chế này chắc chắn sẽ khiến các DN giấy lao đao, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của toàn ngành giấy. Mặt khác, việc Chính phủ siết chặt quản lý đột ngột khiến DN lâm vào thế bị động. Nhà máy cần vận hành hằng ngày, nhưng nguyên liệu cần lại không thể đến khiến hoạt động sản xuất đình trệ. Việc này cũng sẽ gây ra những phản ứng dây chuyền đến một chuỗi các ngành công nghiệp khác như ngành công nghiệp bao bì, ngành công nghiệp xuất khẩu".
Ông Phan Chí Dũng, nguyên Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nhẹ, Bộ Công thương nhận định: "Có thể nói, bất cứ DN giấy nào khi sử dụng phế liệu hay bất cứ nguồn nguyên liệu nào khác, nhập khẩu hay thu mua trong nước để sản xuất đều có nguy cơ tiềm ẩn gây ô nhiễm môi trường nếu không có biện pháp quản lý tốt. Còn việc lo ngại nhập khẩu phế liệu sẽ biến Việt Nam thành "bãi rác", điều này chỉ đúng khi nguyên liệu này không phục vụ cho bất cứ hoạt động sản xuất nào, còn một khi đã là nguyên liệu sản xuất quan trọng, lại là mặt hàng được giao dịch toàn cầu, cần cẩn trọng xem xét".
"Việt Nam cần tham khảo chính sách quản lý nhập khẩu giấy phế liệu của các nước khác, đối chiếu với tình hình phát triển kinh tế và nhu cầu tại Việt Nam để đưa ra được chính sách phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc các cơ quan Nhà nước có liên quan tham vấn các DN để có quan điểm khách quan hơn hơn để dần hình thành và hoàn thiện khung khổ pháp lý này là hoàn toàn cần thiết", ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban pháp chế VCCI khuyến nghị.
Trong phiên thảo luận, nhiều đại biểu cũng đưa ra kiến nghị về việc sử dụng các công cụ khác, như: phân luồng vi phạm theo mức độ, xác suất sai phạm qua kiểm định của các DN, chứ không đánh đồng tất cả như một. Bên cạnh đó tiến hành rà soát, chỉnh sửa tiêu chuẩn giấy tái chế đang nhập khẩu vào Việt Nam để giấy tái chế được quản lý và cân nhắc như tiêu chuẩn một nguồn nguyên liệu sản xuất. Đồng thời thay đổi tên nguyên liệu giấy từ "phế liệu giấy" thành "giấy thu hồi sử dụng làm nguyên liệu cho sản xuất".
Các đề xuất, kiến nghị nêu ra từ các chuyên gia và DN đầu ngành về quy phạm pháp luật hướng tới mục tiêu tạo điều kiện cho ngành giấy phát triển, nhưng đồng thời vẫn quản lý hiệu quả. Bên cạnh đó, chúng ta cần tham khảo chính sách quản lý nhập khẩu giấy phế liệu từ các quốc gia khác, tính toán cân đối với sự phát triển kinh tế trong thời điểm hiện tại của Việt Nam để đưa ra được định hướng chính sách phù hợp, đặc biệt là cân nhắc lộ trình áp dụng chính sách. Về phía DN giấy, môi trường vẫn luôn cần là ưu tiên hàng đầu trong phương thức sản xuất và xả thải và giữ vững tiêu chí sẵn sàng phối hợp cùng Chính phủ, đóng góp kiến thức khoa học kỹ thuật để tăng chất lượng sản phẩm, đảm bảo xử lý môi trường và góp phần phát triển kinh tế.