Gò Côi là tên cũ của xóm. Nhìn từ núi Chúa, nó như một bàn tay chằng chịt dọc ngang những đường chỉ mờ tỏ, chỗ lồi, chỗ lõm vô chửng. Chỗ lồi sạn chai trơ mặt ra hứng nắng gió. Chỗ lõm trầm tích bao buồn vui đời người.
Gò Côi là tên cũ của xóm. Nhìn từ núi Chúa, nó như một bàn tay chằng chịt dọc ngang những đường chỉ mờ tỏ, chỗ lồi, chỗ lõm vô chửng. Chỗ lồi sạn chai trơ mặt ra hứng nắng gió. Chỗ lõm trầm tích bao buồn vui đời người.
Thật giống bàn tay cuốc đất lật cỏ của mẹ, không như bàn tay cầm bút mượt mềm của chị. Trông lên núi Chúa, xóm chẳng cao bằng ai, ngó về xuôi, nơi có dòng sông Ly Ly giống một sợi chỉ đen ngẫu nhiên được tạo hóa rải trên đất, thì nó đúng nghĩa là gò.
Gò Côi vốn là đất của ông Côi, ông Cút từ thời xa lắc nào đó. Về sau, người đời quen gọi “mồ côi" có lẽ vì thế đất bị ngăn sông cách núi như sự xếp đặt có phần nghiệt ngã của tạo hóa. Suối Mơ chen lấn chia phần với dòng Ly Ly bọc một đường viền trắng vòng vèo phía Tây
Ngẫu nhiên hay định mệnh cố tình trêu chọc mà xóm Mồ Côi quy tụ khá đông phụ nữ không chồng. Số chết trong chiến tranh, số bị tai nạn, số kiếm sống nơi rừng thiêng nước độc, đất khách quê người không thấy về, số bỏ quê đi biệt...
“Ầu ơ… chớ mồ côi cha ăn cơm với cá. Mồ côi mẹ liếm lá đầu đường.Mồ côi người thương... mồ côi người thương ra sông đứng ngóng... ỏ”. Giọng ru con của ai đó khàn khàn gắng sức như sắp vỡ vụn, cất lên nặng nề giữa hoàng hôn mờ đục. Mưa dai dẳng như người già khó tính. Cái rét đầu đông cũng đủ để vạn vật co lại
Bà Năm nghiêng mê nón lá, cố che cho nước mưa khỏi bay vào tô cháo hành bốc hơi. Lá tre rơi đầy hiên căn nhà nhỏ. Bà rảy rảy nước mưa rồi thả phạch mê nón vào một góc hiên:
- Chị Tư dậy ăn cháo nóng nè!
Căn nhà nhỏ mò tối, vắng đến có cảm giác thẳm sâu hun hút. Trên bàn thờ, những cọng chân hương đã đổi sang màu thẫm tro, chen chật cái nồi hương cũ. Hai tấm ảnh thờ tạc hai khuôn mặt đàn bà, đàn ông, già trẻ khác nhau nhưng lại giống nhau như đúc. Người già, khuôn mặt từng trải, rắn rỏi rất đàn ông. Người con gái trẻ phơi phới nụ hoa hàm tiếu với đôi mắt như đang mải mơ nghĩ chuyện nàng Tiên, cô Tấm. Bà Năm rùng mình, cái rợn lạnh chạy từ gáy xuống sông lưng như hồi nhỏ đi ngang qua miếu Cây Thị giữa trưa hay lúc chạng vạng. Bà bật điện, ánh sáng từ cái bóng điện sáu tấc không đủ khả năng xua hết âm khí.
Bà Tú khó nhọc xoay người. Vẫn thế nằm hơi cong dáng tôm. Hai mắt người già nheo nheo khi tiếp xúc với ánh điện đột ngột. Tấm mền cũ che không kín đôi bàn chân xương xẩu, tai tái. Giọng bà khản đặc những đờm:
- Bà Năm hả?
Tô cháo không còn bốc hơi, được đặt lên chiếc ghế gỗ mặt vuông ở đầu giường. Cái ly nhựa xanh úp trên chai nước lọc và cái bánh ăn dở bên cạnh. Bà Năm đỡ người bệnh ngồi dậy:
- Chị Tư múc cháo ăn được chớ. Không thì để tui đút cho.
- Bà để đó tui. - Vừa nói, bà Tư vừa uể oải búi lại mái tóc đã rụng quá nửa - Phiền bà quá!...
Nhìn bà Tư nhăn mặt nhíu mày chậm rãi nuốt từng muỗng cháo, bà Năm nhớ thời còn đi học. Đứa con của rừng, đứa con của biển gặp nhau, cây kẹo ú, quả ổi, khúc mía cùng chia đôi. Dạo ấy làng còn đói cái ăn mặc hơn bây giờ nhiều lắm. Con gái dân tản cư gốc tiểu thương, trắng da dài tóc, bà Tư vẫn lên rừng kiếm củi như ai. Những trưa hè rát mặt gió Lào, những đêm trăng huyền ảo như cổ tích, bà Tư đã nhanh chóng hòa vào các trò chơi u u, bịt mắt bắt dê, trốn tìm ... với đám trẻ trong vùng. Càng lớn, bà Tư càng đẹp. Con trai cái xóm quê nghèo xem đó là đóa hoa lạ vừa chui ra từ túi áo bà Tiên. Để đêm về, có lắm người chỉ nghĩ về một người, lúc tỉnh cũng như lúc mơ.
Nhưng thân nhau, gắn bó với nhau nhất, có lẽ không ai bằng bà Tư với bà Năm. Nhà hai người chỉ cách nhau một vạt đất trồng mía. Hú một tiếng ở bên này, bên kia đã co cẳng chạy. Sớm chiều, trên con đường đất một bên là tre, một bên đồng lúa, rất ít khi thấy bà Năm hay bà Tư đi về một mình. Những đêm làng có hát bội, thật khó cho trai làng khi muốn rứt riêng họ ra. Hai cô cứ ôm nhau suốt buổi như thế, cùng đứng, cùng ngồi, cùng cười, cùng chảy nước mắt. Đến nỗi khi hai người được trường phân đóng vai Tấm, Cám thì cái mặt xụi lơ, lắc đầu. “Đóng Trưng Trắc, Trưng Nhị kia.” Có người trong làng đã ví hai cô như đôi chim cuốc. Cuốc mà lẻ đôi thì chỉ có chết khô chết héo.
“Đúc cây dừa. chừa cây nạng, cây làn can, cây bí đao, tay nào cao, tay nào thấp...".Tay nào cao, tay nào thấp rồi cũng phải đến lúc từ giã những câu hát đồng dao thơm mùi cỏ. Chiến tranh. Bắt đầu là trận đánh lớn trên núi Thấp chỉ mới gợi sự tò mò đối với người dân tại đây. Họ ra đồng làng, lên đồi xem máy bay thả bom. Bà Tư, bà Năm lúc ấy đã là học sinh trường huyện, cũng lên rừng xem đánh nhau. Trở về, hai cô gái đựng đầy túi hoa dủ dẻ thơm lựng. Kỷ niệm cuối cùng đáng nhớ nhất của hai người là thế.
Bàn tay hơi run của bà Tư làm rơi chiếc muỗng xuống nền nhà láng xi-măng, âm thanh làm giật mình con thằn lằn trên tường.
Chị cố ăn thêm ít nữa, ăn nhiều vào rồi đắp kín mền nằm nghỉ cho toát hết mồ hôi ra là khỏe ngay. Bà Tư lắc đầu, uống vội chút nước lọc. Bà Năm sửa lại tấm mền cho kín đầu, kín chân bạn già rồi bắt đầu dọn dẹp, từ trên mặt vuông của chiếc ghế gỗ đến nhà trên, nhà dưới. Rồi như sực nhớ điều gì, bà quay lên:
- Chị để tui cào ban cho nghe. Trở mùa, thời tiết khó chịu, tuổi già không chịu nổi, cào là hết thôi.
Bà Tư chỉ ve dầu gió và cái đồng bạc cũ mẻ cạnh đen đứa cất trên đầu tủ.Nhìn tấm lưng chỉ còn da bọc xương rồi nhìn những chỗ sứt mẻ quanh đồng bạc, bà Năm ái ngại. Bà lại lật đật che nón, băng qua con đường đất đọng nước về nhà lấy đồng bạc mới. Thỉnh thoảng bà Tư lại rùng mình, không biết vì đau hay vì lạnh. Cố giữ cho những đường cào tiếp xúc thật êm nhẹ với tấm lưng lộ xương, bà Năm vừa chăm chú quan sát một bên vú của bà Tư. Trong thế nám sấp, áp mãi lên gối, cái vú khô teo dài thòng bị ép chặt xuống giương, như không có. “Vú em nhu nhú đít cau. Cho anh bóp cái có đau anh đền”. Hình như chỉ một lần nghe bọn con trai làng trêu chọc câu hát đó mà bà vẫn còn nhớ cho đến tận bây giờ. Sau đó, trong một đêm trăng tắm chung với bà Tư, một lần duy nhất, bà Năm được tận mắt nhìn kỹ đôi vú nhu nhú đít cau của bạn. Là người cùng giới tính, bà vẫn cảm thấy có cái gì rạo rực khác thường, như thể có ai đó đang sờ vào ngực mình. Dưới trăng, hai núm vú hồng hồng cứ như thể lớn dần ra trông thấy. Một mầm sống mãnh hệt đang cựa quậy trong đó, như muốn thoát ra cùng trăng, chơi vơi cùng đất trời. Khi kỳ lưng cho bạn, bà đã cố tình chạm nhẹ vào đầu vú ấy. Cái cảm giác thật khó tả, nhọn hoắt vừa dễ chịu. Đêm ấy về nhà, bà Năm đã mở nút áo nhìn lại ngực mình. Một sự ghen tỵ vu vơ cứ khiến bà phải trằn trọc thâu đêm.
Theo lời kể của bạn thì cũng từ bầu vú trời cho ấy mà bà Tư mang vạ. Bom đạn phủ trùm cái xóm nhỏ yên bình, nhanh đến hốt hoảng, ngỡ ngàng. Mọi người quiú chân tập trung lo việc tránh bom đạn. Bà Năm xách chiếc võng ni-lông và cái gùi vải nhảy núi. Bà Tư theo chú xuống phố sống tại một khu gia binh nhốn nháo để tiếp tục ăn học. Đôi bạn trẻ không kịp nói lời từ biệt. Từ đó, ngoài thời gian ở trường, bà Tư tự nhốt mình vào cái nóng nhão người trong căn phòng hẹp, mái tôn thấp lè tè của chú thím. Ban ngày bà cố làm quen với những thanh âm, mùi vị không thể nào phân biệt, gọi tên nổi. Đêm về, lắng nghe điệu nhạc phản chiến và tiếng đàn ghi-ta trong veo từ ngôi lầu cao bên cạnh mà nhớ quê, nhớ kỷ niệm thơ ấu đến chảy nước mắt.
Rồi một hôm, có một người bạn của chú là một sĩ quan "quân đội Cộng hòa" đến với bà. Anh là một thiếu úy trẻ, đẹp trai, vừa tốt nghiệp trường sĩ quan Đà Lạt ra. Nhà anh ở ngay trong thành phố, lại thuộc dòng dõi gia đình quý tộc, có ông nội từng là quan chức cấp tỉnh thời thuộc Pháp. Dạo ấy, những bông mai nở vàng trên ve áo lính của các chàng trai trẻ còn thơm mùi học đường vẫn là vẻ đẹp lý tưởng đối với nhiều nữ sinh áo trắng tóc dài. Huống hổ, anh là trai thành phố, nhà giàu, khỏe đẹp. Bắt đầu gặp gỡ là cái nhìn đốt lửa vùng ngực chín muồi trước tuổi của bà vào một trưa nóng, tểnh toàng từ căn phòng đến áo quần. Sau đó, bắt đầu ghi vào nhật ký học trò những câu đại loại như thế này: “Thần tượng Na-pô-lê-ông từng làm mê mệt em đã bước ra ngoài trang sách, thành anh, anh bằng xương bằng thịt hẳn hoi, anh từ dáng đi đến hơi thở". Tội nghiệp, cái lãng mạn, bồng bột học trò đã thả trôi tụt tuổi trẻ chưa thành tuổi trẻ của bà, nhẹ nhàng như phiến lá rơi. Việc học dở dang nửa chừng...
Bà Tư khẽ rên.
- Đau hả chị? - Bà Năm nhẹ tay, hỏi nhỏ.
- Có nổi ban nhiều không bà?
- Đỏ bầm cả lưng. Ráng thêm chút nữa sẽ nhẹ người ngay.
Con mèo rình bắt chuột làm ngã đồ vật gì trong buồng khiến bà Năm giật mình, nhìn lên. Bà bắt gặp bóng mình, bóng bà Tư in trên tường như dính chặt nhau. Lặng lẽ. Hèn gì hồi xưa có người bảo "Hai đứa như bình với bóng”. Hình với bóng, ừ, bà như vừa chợt nhớ ra điều gì:
- Hồi xưa, anh Tư mất vào năm nào hở chị?
- 1972, mùa hè đỏ lửa ở Quảng Trị - Giọng bà Tư bỗng khỏe hẳn ra.
Bà Năm nhẩm tính trong đầu rồi không biết vì cớ gì lại thả vào trời đất một câu nói khống khứ, lớ ngớ:
Còn ba năm nữa thì hòa bình chứ mấy. - Không nghe bà Tư nói gì, bà Năm lại kể lể - Anh nhà tui cũng mất trước đó mấy tháng, trong một trận bom B52 vào mùa hè bảy hai. Đau nhất là cái chết của đứa con đầu vào năm bảy tư chị ạ. Con người ta có khi bị đứt tay không thấy đau bằng lúc lành lặn ngồi nghĩ lại. Giá như mà chiến tranh kết thúc sớm hơn ít năm chị nhỉ?
Vẫn không nghe bà Tư nói gì. Hơi chột dạ, bà Năm không muốn nhắc đến chuyện chiến tranh, chết chóc nữa, nhưng cái đầu thì cứ bắt phải nghĩ. Đúng là chỉ trong vòng mấy năm trời mà bà khô héo đến không còn đủ nước mắt để khóc nữa. Khóc chồng, khóc con, vẫn không bằng cái khóc lặng thầm trong ngày vui hòa bình. Bà cảm giác như mình vừa lỡ một chuyến đò đời người quan trọng. Tựa cửa nhìn người ta vui mà mình chảy nước mắt. Thằng con trai đầu của bà chạy giao liên nhanh như sóc. Đó là nhờ bà nhai mớm cho nó từng vẹt cơm, tập cho nó leo dốc, dạy cho nó bơi qua khúc sông hẹp. Nó còn nắm dây mũi bò, quệt chưa khô sạch dãi mũi đã bị nước lũ cuốn trôi. Người ta chết nước mặt tái bầm, nó vẫn sáng rựng như mặt trời. Chỉ khoảng ba tháng trước khi hòa bình. Tất cả đểu mới rồi như ngày hôm qua.
Cảm giác buồn trong vui, mất trong được ấy đến trở lại y hệt với bà vào cái ngày khánh thành, bàn giao ngôi nhà tình nghĩa. Hôm ấy có đầy đủ đại biểu huyện, xã, thôn hội phụ nữ, cơ quan kinh tế đỡ đầu... Người ta thấy bà vui như chưa bao giờ được vui như thế. “ Suốt đời mẹ ra phải sống di tản hết nơi này đến nơi khác, núi rừng, sông suối nào cũng trải qua mà có cái nhà vẫn không ổn định được. Giờ mơ ước cả đời có rồi, còn chi bằng…" Bà cười móm sọm hai má tóp teo… Nhưng rồi sau đó, khi chỉ còn lại mình bà với căn nhà mới, bà khóc: "Ông ơi, thời chiến tranh, bao cấp khó khăn qua rồi, chừ được sung sướng thì chỉ có mình tui hưởng. Mình tui thì cần chi nhiều. Hồi xưa một túp lều, một hốc đá, có ông, có con vần cứ vui. Bà lại khóc, như có ai vừa cứa vào da thịt một nhát dao sắc lẻm. Đường cắt cứa xẹt nhanh như lửa, chỉ đêm về một mình mới thấm thía nỗi tái tê.
- Thôi, được rồi bà Năm. Bà về để lo việc heo gà.
Bà Năm ngừng tay nhìn người bạn già từ từ trở mình. Bà giật mình. Đôi mắt bà Tư đỏ ngầu, đờ đần như người mất hồn. Nước mắt còn đọng ướt vùng má lõm sâu. Những sợi tóc trắng lơ thơ ướt đẫm dính chặt vào thái dương. Bà Tư đưa ống tay áo quệt mắt. Bà Năm bối rối đến không biết mình phải làm gì tiếp theo. Lâu sau, bà mới thâu dọn các thứ linh tinh, vừa nói to:
- Thôi chị nằm nghỉ, tui về lo mấy việc vặt, tối lại chạy sang...
Nói là thế, nhưng bà Năm không sao lùa nổi mấy con gà vào chuồng, hâm lại thức ăn khi trưa hay bật cái tivi lên mà xem phim truyện. Bà vật người ra giường với chân tay như rụng rời. Ánh mắt và những giọt nước mắt của bà Tư đã đuổi theo bà trong cái mưa rét đầu đông, băng qua con đường đất đọng nước. Giờ thì nó cứ vởn vơ ỏ đó, mở mắt thấy, nhắm mắt thấy. Cũng đã nhiều lần ngồi nói chuyện với nhau, bà đã bắt gặp ánh mắt là những giọt nước mắt ấy, vậy sao lần nào bà cũng thấy xúc động, như thể nước mắt ấy, nỗi đau ấy là của chinh mình. Ngày hòa bình, được thừa hưởng gia tài nhà chồng gồm một quán nước và ngôi nhà hai tầng, bà Tư đã phải bỏ phố về quê sau khi đứa con gái độc nhất vượt biên với người chồng sắp cưới bị chết ngoài biển khơi. Ngày ấy, ở phố hay ở quê cũng không dễ sống với cái lý lịch nặng nề của gia đình nhà chồng như thế! Vậy là bà Tư phải bám vào cái bóng gia đinh liệt sĩ của người chị. Chị theo chồng lên huyện, bà thành ra kẻ bơ vơ nơi góc quê ánh vàng này... Xóm Mồ Côi thêm một người mẹ mồ côi...
Chẳng biết đêm nay là đêm thứ mấy trong đời, bà Năm ngồi một mình, lặng lẽ ngắm bức ảnh thờ của chồng con. Bà cảm thấy căn nhà nhỏ bị thừa không gian quá nhiều. Bên ngoài, mưa nhỏ hạt nhưng dai dẳng. Trời tối, sự chuyến mùa như càng về khuya càng nhanh hơn. "Âu ơ... chớ bồng em ra dạo vườn cà. Trái non bỏ mắm, trái già làm dưa. Mắm dưa tình mẹ sớm trưa. Nuôi con khôn lớn, nắng mưa mẹ... nhờ!” Xóm Mồ Côi thường có những lời hát ru chõi ra một mình như thế. Cứ mỗi lần nghe hát, bà Năm lại hướng mắt về phía núi, trầm ngâm. Sau đó, từ một sự thôi thúc mô hình, bà se dấn vặn chiếc ti vi to lên, hoặc xích cửa bước ra bên ngoài. Đi đâu, nhiều khi bà chẳng biết đi đâu. Không muốn đi, cái chân cùng bắt phải đi. Thôi thì sang bên nhà bà Tư gần nhất để chuyện trò cho vui.
Ánh đèn gin lóe sáng một vệt dài. Con chó mực giật mình sủa lên một tiếng rồi lại ngoắt đuôi, ỉ ẳng giọng mừng. Bà Tư chậm rãi bỏ nón bước vào.
- Chị Tư, khỏe rồi hả? - Mắt bà Năm bỗng sáng lên lạ lắm.
- Đơ đỡ…
TIÊU ĐÌNH
(Tạp chí Đất Quảng)