(Toquoc)- Trải nghiệm 86 năm trên cõi đời, Giáo sư Bùi Văn Nguyên là bậc thầy đáng kính của nhiều thế hệ học trò, đã xuất bản nhiều công trình nghiên cứu, dịch thuật, truyện ký danh nhân và các bộ giáo trình văn học sử tiêu biểu.
(Toquoc)- Nhà văn, Giáo sư Bùi Văn Nguyên (1918-2003), còn có bút danh Vân Trình, Khuê Hoa Nữ tử, Hùng Nam Yến, Tú Gầy), quê ở làng Hưng Vận, xã Nghi Hưng, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học, thuở nhỏ từng học tiểu học tại Vinh, trường Thăng Long (Hà Nội), rồi làm công chức ngành bưu điện ở Biên Hoà (Nam Bộ). Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông làm giáo viên suốt chín năm kháng chiến tại Nghệ An và Hà Tĩnh. Năm 1956, ông ra Hà Nội giảng dạy Ngữ văn tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, làm Chủ nhiệm bộ môn Văn học Dân gian và văn học cổ Việt Nam trong nhiều năm, Tổng thư kí Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam... Ông được Nhà nước Việt Nam phong chức danh Giáo sư Văn học năm 1984, anh hiệu Nhà giáo Ưu tú và Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật...
Trải nghiệm 86 năm trên cõi đời, Giáo sư Bùi Văn Nguyên là bậc thầy đáng kính của nhiều thế hệ học trò, đã xuất bản nhiều công trình nghiên cứu, dịch thuật, truyện ký danh nhân và các bộ giáo trình văn học sử tiêu biểu: Văn học Việt Nam, sáu tập (soạn chung, 1961, 1962), Nguyễn Trãi (Truyện ký, 1980), Chủ nghĩa yêu nước trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn (1980), Văn chương Nguyễn Trãi (1984), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, hai tập (1988), Tân đính Lĩnh Nam chích quái (1993), Ức Trai di tập bổ sung (1994), Kinh Dịch Phục Hy - Đạo người trung chính thức thời (1997), v.v…
Ở đây chỉ nói về sự cộng tác của Giáo sư Bùi Văn Nguyên với Tạp chí Văn học.
Theo thống kê bước đầu, qua 44 năm (1960-2003), Giáo sư Bùi Văn Nguyên đã viết tổng cộng 26 mục bài trên Tạp chí Văn học (TCVH) (trước tháng 6-1963 lấy tên Nghiên cứu Văn học (NCVH), từ tháng 7-1963 đến tháng tháng 12-2003 có tên Tạp chí Văn học, nay là Nghiên cứu Văn học). Chia trung bình, cứ gần hai năm thì ông góp một tiểu luận. Điều này cho thấy mối quan tâm và sự cộng tác chuyên cần, bền bỉ của ông với Tạp chí Văn học. Thử xoay chuyển 26 mục bài “khối vuông Rubic” của Giáo sư Bùi theo nhiều góc độ, chiều hướng, điểm nhìn khác nhau xem sao…
Giáo sư Bùi đã viết tổng cộng 26 mục bài, trong đó 23 bài ký tên BÙI VĂN NGUYÊN, chỉ có 2 bài ký bút danh VÂN TRÌNH (gồm bài giới thiệu sách Đọc cuốn Văn học trích giảng lớp 8 phổ thông (Tập 2), in hai kỳ, NCVH, số 4-1962 và số 5-1962; và bài Tìm hiểu thêm về nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, TCVH, số 3-1976). Không rõ ý nghĩa sâu xa của bút danh VÂN TRÌNH nhưng việc luôn ký tên thật cho thấy ông là người trung thực, thẳng thắn, có trách nhiệm với trang viết của mình.
Giáo sư Bùi viết bài đầu tiên với nhan đề Góp ý kiến về sự nhầm lẫn đối với một số tác phẩm, tác giả và dịch giả trên tạp chí NCVH (số 12-1961), khi ông đã 43 tuổi. Bài viết tập trung minh định tư liệu trong sách Văn đàn bảo giám của Trần Trung Viên và các sách Binh thư yếu lược (bị làm giả), Nam Việt sử ký (chính là Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu), Lĩnh Nam dật sử (sách giả, nguyên tên Hội đồ Lĩnh Nam dật sử của tác giả Trung Quốc), Việt Lam xuân thu (nguyên tên Hoàng Việt xuân thu, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến dịch, 1914), v.v… Điều này cho thấy Giáo sư Bùi sớm quan tâm đến thư tịch Hán Nôm và tính chính xác của các nguồn tư liệu văn học.
Bài thứ hai có tên Đọc cuốn Văn học trích giảng lớp 8 phổ thông (Tập 2) trên khi tạp chí NCVH số 4-1962. Đây là bài thuộc thể văn đọc sách, điểm sách, giới thiệu và góp ý công trình sách giáo khoa. Điều này xác định Giáo sư Bùi thuộc thế hệ những người đầu tiên trong giáo giới và học giới nói chung đã đến với TCVH ngay từ giai đoạn Viện Văn học mới thành lập và xuất bản tạp chí. Bài viết cũng chứng tỏ ông sớm quan tâm đến việc viết bài đọc sách và giới thiệu sách trích giảng văn học, sách ngữ văn bậc phổ thông. Có thể coi ông là một trong những người đầu tiên gợi mở chuyên mục Văn học và nhà trường mà tạp chí còn duy trì cho đến ngày nay.
Trong số 26 mục bài của Giáo sư Bùi in trên TCVH, có 16 bài là những tiểu luận nghiên cứu chuyên sâu và 10 bài thuộc loại Trao đổi ý kiến, Ý kiến ngắn, Phỏng vấn, Đọc sách, Hồi ức, Chân dung, Thông tin tư liệu… Điều này cho thấy ông quan tâm đến những vấn đề nghiên cứu chuyên sâu là chính nhưng cũng chú ý đến nhiều nội dung thuộc về lằn ranh, đường biên, chi lưu của hoạt động nghiên cứu văn học.
Trong số 16 tiểu luận nghiên cứu chuyên sâu của Giáo sư Bùi trên TCVH, có 7 bài thuộc lĩnh vực văn hóa - văn học dân gian, 8 bài thuộc văn học trung đại và 1 bài thuộc văn học Cận - hiện đại (Tìm hiểu thêm về bài thơ Thề non nước của Tản Đà, TCVH, số 4-1974)… Điều này cho thấy lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là văn hóa - văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam, thảng hoặc mới ghé qua vườn Cận - hiện đại.
Trong số 7 tiểu luận nghiên cứu chuyên sâu thuộc lĩnh vực văn hóa - văn học dân gian của Giáo sư Bùi trên TCVH, có 1 bài đặt vấn đề nghiên cứu cội nguồn cơ sở căn rễ văn hóa (Vài nét về văn hóa thời Hùng Vương qua một số truyền thuyết cổ, TCVH, số 3-1973), nghĩa là đã chú ý đến tính cộng sinh văn hóa - văn học và tính tổng thể của hệ thống folklore… Giáo sư Bùi lại có hai bài nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa - văn học các dân tộc thiểu số (Vẻ đẹp hùng tráng và nên thơ trong trường ca Tây Nguyên, TCVH, số 3-1975; Tìm hiểu cội nguồn Việt cổ qua một số mô-tip tiêu biểu trong truyện cổ dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, TCVH, số 4-1985), nghĩa là đã sớm chú ý đến vị trí bộ phận văn học dân tộc thiểu số trong chỉnh thể nền văn học dân tộc.
Trong số 8 bài nghiên cứu chuyên sâu thuộc giai đoạn văn học trung đại của Giáo sư Bùi in trên TCVH, có 4 bài khảo sát trực diện về các tác gia Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Đoàn Thị Điểm, trong đó riêng Nguyễn Trãi chiếm 2 bài (Bàn thêm về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, TCVH, số 3-1964; Mấy vấn đề cần được xác minh thêm trong Thơ văn Nguyễn Trãi, TCVH, số 6-1972). Điều này cho thấy Giáo sư Bùi đặc biệt yêu thích Nguyễn Trãi. Sau này ông còn tiếp tục viết về Nguyễn Trãi trong giáo trình văn học và hai bộ chuyên khảo bề thế: Chủ nghĩa yêu nước trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn (1980) và Văn chương Nguyễn Trãi (1984), đồng thời còn có thêm công trình biên khảo - chú thích - giới thiệu Ức Trai di tập Bổ sung (1994)…
Lại nói trong tổng số 26 mục bài của Giáo sư Bùi in trên TCVH, có 5 bài thuộc loại trao đổi, thông tin tư liệu. Tất cả các bài này đều thuộc khu vực văn học trung đại Việt Nam. Điều này xác nhận sự am hiểu chuyên ngành Hán Nôm của Giáo sư Bùi gắn với khả năng cảm thụ, phân tích, bình giảng tác phẩm. Đây cũng chính là một trong những yêu cầu quan trọng trong hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và thẩm bình tác phẩm văn học trung đại.
Đến đây tôi xin dẫn bài viết cuối cùng của GS. Bùi với nhan đề Nỗi niềm và cố gắng của Vũ Quỳnh khi ông viết Tân đính Lĩnh Nam chích quái in trên TCVH, số 8-2001. Bài viết chỉ có 3 trang nhưng được đặt làm bài mở đầu cho số tạp chí có tổng cộng 11 mục bài. Do tầm quan trọng của nguồn tư liệu đưa ra trong bài, tôi đã đến nhà ông ở một căn hộ nhà tầng tập thể bên kia phố Hàng Vôi, cạnh sông Hồng. Khi ấy ông đã bị đau chân, chỉ đi lại được trong nhà và phải dựa vào một cái nạng tròn. Ấy thế mà giọng ông vẫn sang sảng, nhiệt tình, say mê, cuốn hút. Nội dung bài viết chủ yếu có ý nghĩa công bố tư liệu. Đại để, dựa theo sách Bách Việt ngọc phả truyền thư do chính vua Quang Trung sai La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp - Nguyễn Quang Trạch (1723-1804) khảo đính và biên soạn (nay vẫn còn, do tộc trưởng họ Nguyễn các vua Hùng là ông Nguyễn Vân Tòng lưu giữ ở làng Vân Lôi, xã Quang Lãm, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây - nay thuộc Hà Nội). Giáo sư Bùi hân hoan tin rằng Ngọc phả Đền Hùng và Bách Việt ngọc phả truyền thư có mối liên hệ chặt chẽ với nhau mà chính ông đã dự cảm trong lời dẫn nhập sách Tân đính Lĩnh Nam chính quái: “Trong kho tàng văn học cổ Việt Nam, Lĩnh Nam chích quái lục chiếm một vị trí rất quan trọng, đành rằng dung lượng của sách không lớn. Cùng với Ngọc phả Đền Hùng, sách này đã đề cập đến cội nguồn, cũng như sự tiến triển của dân tộc ta từ thời dựng nước”… Điều quan trọng hơn, theo chỉ dẫn của Bách Việt ngọc phả truyền thư, GS. Bùi tin rằng tác giả Trần Thế Pháp bí ẩn - người khởi đầu soạn Lĩnh Nam chính quái - chính là đức vua Trần Nhân Tông (1254-1308), đệ nhất tổ Thiền phái Trúc Lâm - Yên Tử. Trong đoạn kết, ông xác quyết: “Bây giờ nếu có điều kiện chỉnh lý, giới thiệu lại Tân đính Lĩnh Nam chính quái của Vũ Quỳnh (bản in 1993), chắc chắn tôi sẽ bổ sung tư liệu và nói rõ hơn vai trò tác giả Trần Nhân Tông - Trần Thế Pháp trong việc viết Lĩnh Nam chính quái cũng như diễn giải kỹ hơn mối liên hệ về văn bản học giữa bản gốc này với bản Tân đính Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh… Thêm nữa, việc xác định Trần Nhân Tông - Trần Thế Pháp là tác giả đích thực sách Lĩnh Nam chích quái cũng đặt ra yêu cầu cần đánh giá lại diện mạo văn học Lý - Trần, rộng hơn là việc điều chỉnh, viết lại một phần lịch sử văn học dân tộc cũng như xây dựng lại nhiều mục từ tác gia - tác phẩm liên quan trong các bộ từ điển văn học và danh nhân văn hóa”… Tôi nhớ Giáo sư Bùi kể rằng đã đến tận làng Vân Lôi (tên nôm là làng Sốm) gặp ông Nguyễn Vân Tòng và trực tiếp đọc Bách Việt ngọc phả truyền thư. Ông đưa ra cuốn sổ tay đặc những chữ Hán và lời dịch, chú dẫn tiếng Việt, kèm thêm cả những hình vẽ minh họa nữa… Đây quả là một thông tin “động trời”. Vì thế tôi được dịp hỏi vặt, lục vấn, chất vấn, hỏi đi hỏi lại ông mà trong lòng vẫn không hết ngờ vực. Tôi không có khả năng hiểu được vấn đề này. Sau này cũng không thấy ai bàn thêm. Tôi cũng chưa thấy có bậc thức giả nào bàn cho ra nhẽ hay có một hội thảo khoa học nghiêm túc nào thẩm định lại thực chất văn bản Bách Việt ngọc phả truyền thư. Chỉ biết rằng, với bài của Giáo sư Bùi, tôi đã biên tập thật kỹ, sửa bản in thật kỹ, cả 9 chú thích đều có dẫn đầy đủ nguồn gốc tài liệu và ghi rõ từng số trang.
Vào những ngày tháng Tám năm 2001 ấy, Giáo sư Bùi có ban cho tôi sách Tân đính Lĩnh Nam chính quái do ông soạn dịch…
Một con giáp đã qua, tôi còn tưởng vọng tiếng ông sang sảng, nhiệt tình, say mê, cuốn hút…