(Toquoc)- Xác định mỹ thuật là ngành công nghiệp văn hóa quan trọng, song Việt Nam chưa có thị trường mỹ thuật thực sự.
(Toquoc)- Xác định mỹ thuật là ngành công nghiệp văn hóa quan trọng, song Việt Nam chưa có thị trường mỹ thuật thực sự. Đây là trăn trở không chỉ của những người làm nghề mà của cả các nhà quản lý.
Bộ VHTTDL đã xác định, mỹ thuật là một trong những ngành công nghiệp văn hóa trọng điểm của Việt Nam và Bộ đang phối hợp với các cơ quan chức năng xây dựng các chính sách, cơ chế cần thiết để tạo lập thị trường nội địa và hỗ trợ mỹ thuật Việt Nam phát triển, vươn ra khu vực và thế giới. Tuy nhiên, hành trình này không dễ dàng.
Những mảng màu sáng tối
Giai đoạn khởi sắc của mỹ thuật Việt Nam là khoảng đầu thập niên 90 đến giữa những năm 2000. Khi đó, thị trường mỹ thuật Việt Nam dần hình thành và phát triển sôi động với nhiều gallery (phòng tranh) được mở tại Hà Nội, Huế, TP Hồ Chí Minh. Có gallery quan hệ với nước ngoài để xuất khẩu tranh hàng tháng. Có gallery liên kết với gallery ở nước ngoài để tổ chức các triển lãm tranh Việt Nam và bán tranh.
Cần có sự cầm trịch của cơ quan quản lý để làm trong sạch thị trường mỹ thuật
Đây cũng là giai đoạn “Nghệ thuật Việt Nam”, “Nghệ thuật thời kỳ Đổi mới” được các curato (giám tuyển) nước ngoài giới thiệu tại một số triển lãm mỹ thuật uy tín và gallery có tiếng trong khu vực và thế giới. Tranh của họa sĩ Việt Nam xuất hiện ở các nhà bán đấu giá quốc tế. Một số bảo tàng nghệ thuật nước ngoài bắt đầu mua tranh Việt Nam. Một bộ phận họa sĩ đã có thể sống sung túc bằng nghề.
Nhận xét về “thời hoàng kim” đã qua, ông Vi Kiến Thành- Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm (Bộ VHTTDL) cho rằng: “Có thể nói thị trường tranh Việt Nam thời kỳ vừa qua đã hình thành và phát triển, góp phần thúc đẩy sáng tác, giới thiệu nghệ thuật Việt Nam và đưa mỹ thuật Việt Nam ra nước ngoài, thúc đẩy tính chuyên nghiệp của các nghệ sĩ, tạo điều kiện cho các nghệ sĩ bán tác phẩm. Gallery đã góp phần vào việc phổ biến, trưng bầy tác phẩm mỹ thuật đến với công chúng rộng rãi”.
Tuy nhiên, sau giai đoạn phát triển đó, cùng với sự suy thoái của nền kinh tế toàn cầu, sự giảm sút về nhu cầu mua tranh từ nước ngoài, bức tranh thị trường mỹ thuật Việt Nam rơi vào màu tối ảm đạm, nhiều gallery và cửa hàng tranh đóng cửa.
Cho đến hiện nay, nhìn chung, các gallary ở nước ta, đặc biệt là hai thành phố lớn Hà Nội và TP Hồ Chí Minh chỉ mới có một số ít được tổ chức khang trang về cả diện tích trưng bày và cách trưng bày. Nhiều gallery có diện tích nhỏ, trưng bầy lộn xộn, thực chất chỉ là cửa hàng tranh nhỏ, bán đủ loại tranh, có nhiều gallery bán tranh chất lượng nghệ thuật thấp…
Chưa kể, các cửa hàng bán tranh chép nở rộ, vi phạm quyền tác giả những không có cơ chế để dẹp.
Điều này khiến ông Thành cho rằng, thị trường tranh của Việt Nam đã hình thành cả trong và ngoài nước nhưng còn nhỏ lẻ và thiếu chuyên nghiệp.
Tuy nhiên, theo nhà báo Đào Mai Trang- tạp chí Mỹ thuật thì mỹ thuật Việt Nam trong chục năm qua được quan tâm đáng kể ở ngoài biên giới, nhưng đại đa số các hoạt động đều do cá nhân, tổ chức của cá nhân trong nước hoặc nước ngoài thực hiện nên không tránh khỏi sự thiên kiến, định kiến. Sự mất cân bằng về vị thế của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực này ít nhiều ảnh hưởng đến vị thế của mỹ thuật Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Nên dù mỹ thuật Việt Nam đã từng có một thời kỳ thành công rực rỡ cả về nghệ thuật và kinh doanh, nhưng ngay trong thời điểm ấy, chưa một ai trong giới mỹ thuật cho rằng, Việt Nam đã thực sự có một thị trường mỹ thuật nội địa, bởi lẽ không hoặc có rất ít khách hàng là người Việt Nam.
Cần người cầm trịch
Việt Nam có hàng nghìn họa sĩ, nhà điêu khắc, có hệ thống bảo tàng mỹ thuật, có sự tiếp nối các thế hệ nhà sưu tập mỹ thuật, có công chúng yêu mỹ thuật. Nói cách khác, chúng ta có tất cả điều kiện nền tảng nhưng chưa thể kết nối các điều kiện đó thành một nền tảng vững chắc và thuận lợi nhất cho sự hình thành và phát triển thị trường mỹ thuật nội địa.
Theo bà Trang, lý do là thiếu công cụ, chính sách vĩ mô phù hợp để gắn kết. Vai trò quản lý của nhà nước cần được phát huy: từ các chính sách về thuế, hỗ trợ và tài trợ, kiểm duyệt nghệ thuật, cơ chế tài chính trong mua bán, sưu tập…đều cần phải điều chỉnh theo thông lệ thế giới.
Còn theo TS Trang Thanh Hiền, về cơ bản, phần nghệ sĩ sáng tác và phần công chúng mỹ thuật đều đã được đào tạo ở Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống các curato (giám tuyển); marketing quản lý, điều hành các gallery, nhà triển lãm; các nhà sưu tập tranh chưa được đào tạo chuyên nghiệp để có một thị trường tranh Việt đúng nghĩa.
Theo TS Trang Thanh Hiền, giải pháp căn bản nhất cho việc đào tạo nguồn nhân lực cho thị trường mỹ thuật là sự thay đổi tư duy đào tạo. Lợi thế của ta là có sẵn một hệ thống nền tảng từ trung ương đến địa phương. Muốn đào tạo hiệu quả thì cần có mục tiêu và chiến lược.
Tuy nhiên, TS Đinh Hồng Hải- Viện Nghiên cứu văn hóa (Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam) cho rằng: “Nhà nước đang quản lý quá lỏng lẻo thị trường mỹ thuật. Sự lỏng lẻo thể hiện rất rõ qua việc các giao dịch mua bán các sản phẩm và tác phẩm nghệ thuật thường không có sự tham gia của cơ quan quản lý về thuế. Những sản phẩm đáng giá tiền trăm triệu, thậm chí tiền tỉ được thực hiện trực tiếp trong một thị trường phi kiểm soát. Bên cạnh đó, các tác giả cũng thiếu tự giác trong việc đăng ký bản quyền cho tác phẩm của mình và nộp thuế cho nhà nước. Điều này dẫn đến tình trạng “không thể phân xử” trong trường hợp xảy ra tranh chấp.
Hai nguyên nhân này, theo ông Đinh Hồng Hải, đã dẫn đến thị trường mỹ thuật non trẻ của Việt Nam rơi vào tay những kẻ “đục nước béo cò”.
Để xây dựng một thị trường mỹ thuật thực thụ, theo ông Hải, cơ quan quản lý nhà nước, cụ thể là Bộ VHTTDL phải cầm trịch để “luật hóa” thị trường mỹ thuật, “luật hóa” tác quyền; Thành lập các hội đồng thẩm định và cơ quan thẩm định; Tổ chức các phiên đấu giá và ủng hộ các nhà đấu giá. Ông Hải nhấn mạnh: “Từ những bước đi này, nhà quản lý, sưu tập, nghiên cứu phê bình và các nghệ sĩ sẽ dần tạo nên một môi trường nghệ thuật lành mạnh. Khi đã có một thị trường lành mạnh thì hàng giả, hàng nhái sẽ không có đất sống. Những người làm nghệ thuật chân chính sẽ phát triển và tiêu thụ sản phẩm và tác phẩm nghệ thuật đích thực chứ không phải là những công việc ăn cắp, sao chép...”
Rõ ràng, vấn đề xây dựng một thị trường mỹ thuật Việt Nam lành mạnh, phát triển bền vững đã và đang được không chỉ những người làm nghề mà cả các cơ quan quản lý quan tâm. Cụ thể là mới đây, một cuộc hội thảo về “Xây dựng chính sách phát triển thị trường mỹ thuật Việt Nam” được Bộ VHTTDL phối hợp với Đại sứ quán Đan Mạch tổ chức nhằm bàn về vấn đề này. Hy vọng, sau những bàn thảo, chính sách nào để thị trường mỹ thuật Việt Nam hình thành và phát triển lành mạnh sẽ được đặt ra, cụ thể và có lộ trình./.
Hồng Hà