• Đường dây nóng

    0901.22.33.66 - toasoan@toquoc.gov.vn

  • Liên hệ quảng cáo

    091.358.6788

Lịch sử lí luận, phê bình văn học Việt Nam

06/08/2013 17:14

(Toquoc)- Bao quát lịch sử lí luận, phê bình văn học nghệ thuật Việt Nam từ khởi thủy đến hiện tại, mô tả và đánh giá, khơi mở những suy tư tiếp tục, nhìn nhận rõ hơn về thực tại, đề xuất những động thái của tương lai... chính là vấn đề cốt lõi trong công trình Lịch sử lí luận, phê bình văn học Việt Nam.

 

(Toquoc)- Lí luận, phê bình văn học là những hiện tượng lịch sử. Điều đó nói lên đặc tính quá trình gắn với sinh thành, biến đổi và du hành qua không - thời gian. Đến nay đã có một số công trình, bài viết mô tả từng giai đoạn, thời kì của lí luận, phê bình văn học dân tộc, nhưng cuốn sách Lịch sử lí luận, phê bình văn học Việt Nam do PGS.TS Trịnh Bá Đĩnh cùng các đồng sự của ông tại phòng Lí luận văn học, Viện Văn học biên soạn là công trình đầu tiên nghiên cứu lí luận, phê bình văn học Việt Nam từ khởi thủy đến hiện tại. Lịch sử lí luận, phê bình văn học dân tộc được xem như sự thay thế nhau của các quan niệm văn học và các phương pháp tiếp cận văn học thông qua những tác gia tiêu biểu. Đây rõ ràng là cách nhìn mới của các tác giả.

Cũng như mọi công trình có tính văn học sử khác, Lịch sử lí luận phê bình văn học Việt Nam được cấu trúc theo trục thời gian (giai đoạn) gắn với sự vận động của lí luận, phê bình văn học dân tộc. Cuốn sách có bố cục bốn phần, 16 chương, triển khai theo mô hình từ tổng quan đến các vấn đề chi tiết, xen cài giữa tổng kết, đánh giá bao quát trên diện rộng với việc xoáy nhấn vào các điểm/hiện tượng tiêu biểu. Đó là cách làm hợp lý, khoa học để vừa đảm bảo tính hệ thống vừa tránh được sự sơ sài hoặc ôm đồm.

Phần một của công trình bao quát Những quan niệm văn học và phê bình thi học thời trung đại (trước thế kỷ XX). Từ sự xác định cứ liệu của các tác giả, quan niệm về văn học, phê bình thi học thời trung đại khởi thủy từ thế kỷ XIV với lời tựa Lĩnh Nam chích quái của Lý Tế Xuyên, Việt âm thi tập tân san của Phan Phu Tiên (XV)[1]. Diện mạo “lí luận”, phê bình thời trung đại được các tác giả khái quát trên các phạm trù như: Chức năng của văn học (văn tải đạo, thơ nói chí); vấn đề tác giả, tác phẩm (văn (thơ) là người); quá trình sáng tạo (tâm - cảnh, tâm - lời); tiêu chí đánh giá văn học (tự nhiên, chân thực). Cốt lõi của lí luận, phê bình văn học trung đại hiện lên trong các phạm trù bao quát này.

Đi sâu hơn vào thực tiễn vận động của quan niệm văn học, công trình đã giới thiệu quan niệm văn học thế kỷ XIV - XV, nhấn mạnh đến tư tưởng văn nghệ của Nguyễn Trãi (vai trò và trách nhiệm xã hội; tài năng và cảm hứng nghệ thuật), khẳng định tư cách một nhà lý luận văn học của Lê Quý Đôn (công phu sưu tầm, giới thiệu tư liệu, kế thừa, tiếp biến quan niệm của ông cha... ). Cũng trong phần này hệ thống quan niệm văn học thế kỷ XVIII - XIX được giới thiệu gắn với tên tuổi Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Lê Hữu Trác, Ngô Thì Vị, Phan Huy Chú..., Sự xuất hiện của thi thoại như là hiện tượng đỉnh cao, đánh dấu bước phát triển của lí luận, phê bình trung đại cũng đã được đề cập đến với tên tuổi của Nguyễn Đức Đạt (Nam Sơn tùng thoại), Miên Thẩm (Thương Sơn thi thoại). Cách làm đan xen giữa bao quát ở tầm diện và tập trung ở những hiện tượng tiêu biểu khiến cho hơn 5 thế kỷ lí luận, phê bình trung đại hiện lên một cách mạch lạc.

Phần hai của công trình khái quát 45 năm đầu thế kỷ XX như là một giai đoạn quá độ lên hiện đại của lí luận, phê bình văn học Việt Nam. Vẫn nhất quán quan điểm hệ thống, phần tổng quan đã nêu rõ Thời đại và sự hình thành nền lí luận, phê bình hiện đại gắn với quá trình “thích ứng” (Karen L Thornber) phương Tây của văn hóa Việt Nam. Giai đoạn này, lí luận, phê bình văn học có thể được ngắt thành hai quãng với đặc tính khác nhau. Từ 1900 - 1932 là thời kỳ chuẩn bị, chuyển mình, gắn với hai khuynh hướng: về nguồn và duy tân. Thời kỳ 1932 - 1945 là giai đoạn trưởng thành với những tiến bộ vượt bậc, ghi dấu trong lịch sử lí luận, phê bình văn học dân tộc những trứ tác kinh điển, khai mở nhiều hướng nghiên cứu đa dạng (Thiếu Sơn, Phê bình và cảo luận - 1933, Nguyễn Văn Hanh, Hồ Xuân Hương tác phẩm, thân thế và văn tài - 1936, Trần Thanh Mại, Hàn Mặc Tử - 1941, Hoài Thanh - Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam - 1942, Trương Tửu, Nguyễn Du và Truyện Kiều, Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ - 1942…). Bên cạnh quan điểm hệ thống, công trình còn tập trung vào một số hiện tượng tiêu biểu trong tiếp cận sáng tác văn học thời kỳ này. Nổi lên là cách Tiếp cận văn học theo lối tiểu sử học gắn với tên tuổi và các nghiên cứu của Trần Thanh Mại (Trông dòng sông Vị, Hàn Mặc Tử), Lê Thanh (Tính sổ văn học), Đào Duy Anh (Khảo luận về Kim Vân Kiều). Hướng nghiên cứu này chú trọng đến tiểu sử tác giả, xem đó là một tiêu chí quan trọng để diễn giải tác phẩm văn học. Cùng với tiếp cận tiểu sử học là cách tiếp cận theo lối ấn tượng chủ quan. Hướng này nổi lên với những tên tuổi cũng rất quen thuộc như Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều, Thạch Lam, Trương Chính, Thiếu Sơn... Đặc tính tiêu biểu của hướng tiếp cận này là đề cao trực giác, cảm thụ cá nhân người đọc (nhà phê bình), văn bản phê bình cũng là một sáng tác văn học bởi nó “đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật” (Hoài Thanh). Rất đáng lưu ý trong phần này là quan điểm có phần khác biệt của tác giả chủ biên công trình (Trịnh Bá Đĩnh) với quan điểm của Nguyễn Văn Trung, Thanh Lãng và Đỗ Lai Thúy về phê bình ấn tượng.

Cũng sinh thành và phát triển trong giai đoạn này là những nghiên cứu của Nguyễn Bách Khoa theo hướng Tiếp cận văn học từ các khoa học. Khoa học trong sự hiểu của Nguyễn Bách Khoa là đề cao tính “khách quan” và vận dụng lý thuyết của các bộ môn khoa học. Tiêu biểu cho hướng tiếp cận này của Nguyễn Bách Khoa là các công trình: Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942) nghiên cứu dựa trên thuyết Dòng giống - Địa dư - Thời đại của H. Taine, thuyết Phân tâm học của S. Freud; Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1943) vận dụng một cách triệt để học thuyết Mác.

Phần ba của công trình khái quát lịch sử lí luận, phê bình văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985 ở cả miền Bắc và miền Nam. Phần tổng quan, tác giả chỉ ra những đặc điểm thuộc về ngữ cảnh của thời đại, trong đó vấn đề trung tâm là sự chia cắt không gian Nam - Bắc với hai thể chế chính trị, văn hóa, học thuật khác nhau khiến cho lí luận, phê bình cũng bị phân hóa rõ rệt. Ở ngoài Bắc, tiếp cận phương pháp sáng tác và văn học sử từ quan điểm Mác-xít trở thành trung tâm của đời sống lí luận, phê bình. Việc hình thành các thiết chế quản lý văn nghệ nhà nước, lấy quan điểm Mác-xít làm tư tưởng hệ, làm thượng tầng kiến trúc đã chi phối mạnh mẽ, có tính quán triệt đến hoạt động lí luận, phê bình. Phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa gắn với các yêu cầu phản ánh, điển hình hóa... đã gần như thống lĩnh đời sống sáng tác và nghiên cứu văn học. Thảng có những nghiên cứu chệch ra khỏi quỹ đạo ấy, lập tức gây nên những tranh luận xôn xao đời sống văn học (Lê Đình Kỵ, Các phương pháp nghệ thuật - 1962, Hoàng Ngọc Hiến, Về một đặc điểm của văn học và nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua - 1979).

Ở miền Nam, lí luận phê bình phát triển trong một điều kiện khá đặc thù so với miền Bắc. Công trình dành một chương (XII) để phác thảo Ngữ cảnh văn hóa - xã hội, đặc điểm cơ bản, các giai đoạn phát triển chính, các khuynh hướng/phương pháp chủ yếu của lí luận, phê bình văn học miền Nam. Các vấn đề về đội ngũ làm lí luận phê bình, nhóm phái, ý thức hệ, các cơ quan ngôn luận, báo chí, các học thuyết phương Tây... đã đem đến sự đa dạng, sinh động cho đời sống văn học. Nổi lên trong hoạt động lí luận, phê bình văn học giai đoạn này ở miền Nam là khuynh hướng: phê bình hiện sinh, phê bình phân tâm học và phê bình cấu trúc luận. Chương XII cũng dành một phần lớn dung lượng để bàn thảo về ba khuynh hướng này với những đại diện tiêu biểu: phê bình hiện sinh - Nguyễn Văn Trung, Đỗ Long Vân, Thế Phong; phê bình phân tâm học - Nguyễn Văn Trung, Tạ Tỵ, Đặng Tiến, Uyên Thao; phê bình cấu trúc luận - Đỗ Long Vân...

Phần bốn của công trình bao quát lí luận, phê bình văn học từ 1986 đến nay, nhấn mạnh đến vấn đề phản tư và hội nhập. Cùng với đổi mới toàn diện đất nước là ý thức phản tư (xoay quanh các vấn đề: văn học và hiện thực, văn học và chính trị, vấn đề con người trong văn học) và hội nhập (sự du nhập của xu hướng ngôn ngữ học, xu hướng phê bình sự đọc, xu hướng tâm lý học và các lí thuyết phương Tây hiện đại khác...) trong đời sống văn học, nghệ thuật. Hai hình thái vận động này của lí luận, phê bình cho thấy sự phát triển của lí luận, phê bình văn học ở cả phương diện kiểm thảo quá khứ và thích ứng với thời đại mới. Giai đoạn này, trong những phân tích có tính chủ điểm, nổi lên là các phương pháp của Thi pháp học và Ngữ học trong việc tiếp cận văn học gắn với tên tuổi của Trần Đình Sử, Phan Ngọc...

Bao quát lịch sử lí luận, phê bình văn học Việt Nam không thể không chú ý đến lí luận, phê bình trong thời đại công nghệ thông tin. Sự phát triển như vũ bão của công nghệ, sự phổ biến của Internet, các tiện ích xử lý công việc, tối đa hóa lưu trữ, không giới hạn trong giao lưu, truyền dẫn, kết nối đã từng bước xóa bỏ không gian địa lý, làm phẳng thế giới, biến đổi từ căn bản đến sâu sắc đời sống con người, trong đó có hoạt động văn học. Lí luận, phê bình trong thời đại công nghệ thông tin vừa thừa hưởng vừa chịu áp lực của thiết chế truyền thông nên đã mang những diện mạo khá khác biệt so với các giai đoạn trước.

Bao quát lịch sử lí luận, phê bình văn học nghệ thuật Việt Nam từ khởi thủy đến hiện tại, mô tả và đánh giá, khơi mở những suy tư tiếp tục, nhìn nhận rõ hơn về thực tại, đề xuất những động thái của tương lai... chính là vấn đề cốt lõi trong công trình Lịch sử lí luận, phê bình văn học Việt Nam. Từ cấu trúc, bố cục, phương pháp làm việc cho đến sự lựa chọn chủ đề, chủ điểm, các tác gia, tác phẩm, khuynh hướng, phương pháp, quan niệm... được khai triển trong công trình đã thể hiện cái nhìn hệ thống, sáng rõ cộng với ý thức cẩn trọng, mang tinh thần học thuật cao của các nhà nghiên cứu. Đây rõ ràng là một tài liệu quan trọng cho việc nghiên cứu văn học ở Việt Nam hiện nay.

Nguyễn Thanh Tâm



[1].Trong công trình, Từ trong di sản, Nguyễn Minh Tấn (cb), NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1981, có dẫn bài bi kí của Nguyễn Công Bật khắc trên Bia Sùng Thiện Diên Linh (dựng năm 1121) ca ngợi tài đức Lý Nhân Tông (1072 - 1128): “Tứ thơ tóm muôn hoa của thơ trời, nhạc phổ hòa âm thanh của nhà phật” (tr 17). Nếu xét về phương diện nghị luận văn chương, bày tỏ quan niệm văn học có lẽ cần phải lùi lại thêm thời gian với nhận định này của Nguyễn Công Bật thay vì Lý Tế Xuyên như tác giả trình bày.

NỔI BẬT TRANG CHỦ