Khi Mạc Đĩnh Chi vào ra mắt vua Nguyên cùng với sứ Cao Ly, nhân có sứ thần ngoại quốc dâng chiếc quạt, vua Nguyên liền bắt Mạc Đĩnh Chi và sứ Cao Ly làm thơ đề quạt.
Khi Mạc Đĩnh Chi vào ra mắt vua Nguyên cùng với sứ Cao Ly, nhân có sứ thần ngoại quốc dâng chiếc quạt, vua Nguyên liền bắt Mạc Đĩnh Chi và sứ Cao Ly làm thơ đề quạt.
Mạc Đĩnh Chi còn đang đắn đo tìm tứ thơ, thì sứ Cao Ly đã cầm bút viết thoăn thoắt. Liếc theo quản bút lông. Mạc Đĩnh Chi thấy sứ Cao Ly viết rằng:
Uẩn long trùng trùng, Y Doãn,
Đông hàn thê, thê Bá Di Thúc Tề.
Nghĩa là;
Nóng nực oi ả thì như Y Doãn,
Rét mướt lạnh lùng thì như Bá Di, Thúc Tề.
Thế là ông vội phát triển ý ấy và viết luôn:
Lưu kim thước thạch, thiên địa vi lô.
Nhĩ ư tư thời hề, Y,
Bắc phong kỳ lương, tuyết vũ tái đồ,
Nhĩ ư tư thời hề, Di, Tề ngã phu.
Y! Dụng chi tắc hành, xả chi lắc tàng.
Duy ngã dữ nhĩ hữu thị phù!
Nghĩa là:
Chảy vàng tan đá, trời đất là lò lửa.
Người lúc ấy như Y Doãn,
Gió bấc lạnh lùng, mưa tuyết đầy đường,
Người lúc ấy như Bá Di, Thúc Tề là những ông già chết đói.
ÔII! Dùng thì chuyên tay, bỏ thì xếp xó.
Chỉ có ta với người là như thế chăng?
Cuối cùng bài của Mạc Đĩnh Chi xong trước, mà ý tứ lại cao diện hơn bài của Cao Ly. Vua Nguyên xem song gật gù, khen mãi và phê từ chữ "y" (ôi!) trở xuống bốn chữ: "Lưỡng quốc trạng nguyên".
(Giai thoại Văn học)