(Cinet) – Ngành công nghiệp văn hóa những năm gần đây đang là ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trên thế giới, tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, ngành công nghiệp này mới đang trong giai đoạn hình thành.
![]() |
Ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam khi được hình thành sẽ có thế giúp phát triển kinh tế xã hội.. |
(Cinet) – Bộ VHTTDL sẽ ban hành chiến lược xây dựng ngành công nghiệp văn hóa thời gian tới đây. Khi mà ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam được hình thành, liệu nó có giúp Việt Nam phát triển văn hóa và trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn như nhiều quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới?
Cả thế giới biết đến kinh đô điện ảnh Hollywood của Mỹ, ngành công nghiệp điện ảnh một trong những lĩnh vực được liệt kê trong danh sách các ngành công nghiệp văn hóa mỗi năm đem lại cho ngân khố Mỹ hàng tỉ đô la lợi nhuận.
Trong khi đó, ở Nhật Bản, doanh thu từ việc sản xuất truyện tranh và trò chơi điện tử cũng đem lại cho quốc gia này nhiều tỉ đô la mỗi năm.
![]() |
![]() |
Doanh thu từ việc xuất bản, tái bản và sản xuất sản phẩm lưu niệm theo cuốn truyện tranh Doraemom cũng đem lại con số khổng lồ, đáng kinh ngạc cho ngành công nghiệp văn hóa của Nhật Bản |
Ngành công nghiệp văn hóa ở Anh cũng tạo ra thu nhập khoảng 112,5 tỷ bảng/năm, đóng góp 5% GDP, chiếm 10 - 15% thị phần công nghiệp văn hóa thế giới. 85% thu nhập quốc dân của Hồng Công (Trung Quốc) có được từ nguồn thu dịch vụ giải trí, truyền hình. Làn sóng Hallyu được tạo ra từ những sản phẩm của điện ảnh và âm nhạc đến từ xứ sở kim chi, cũng đã mang về cho Hàn Quốc hàng chục tỉ đô la mỗi năm. Đó là chưa kể đến sự ảnh hưởng gián tiếp mà ngành công nghiệp văn hóa này đã đem lại cho du lịch cũng như thương mại Hàn Quốc…
![]() |
![]() |
Các sản phẩm điện ảnh và âm nhạc cũng đã tạo đà cho sự phát triển hùng mạnh của ngành công nghiệp văn hóa của xứ ở kim chi |
Ở châu Âu, ngành công nghiệp văn hóa đã tạo ra khoảng 3% GDP (tương đương 500 tỉ euro/năm) và giải quyết việc làm cho khoảng 6 triệu người.
![]() |
Chỉ tính ở Châu Âu, ngành công nghiệp văn hóa đã tạo ra hơn 6 triệu việc làm.. |
Tuy nhiên ở Việt Nam, khái niệm ngành công nghiệp văn hóa vẫn còn là một khái niệm khá mới bởi thực tế đến thời điểm này, Bộ VHTTDL vẫn còn đang trong quá trình xây dựng Chiến lược cho ngành công nghiệp văn hóa, dự kiến trong năm 2014 bản Chiến lược này sẽ được hoàn thành. Như vậy, ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam hiện nay vẫn đang ở trong giai đoạn hình thành.
Nói vậy không có nghĩa là Việt Nam chúng ta không tham gia sản xuất hay có những lĩnh vực thuộc danh sách 11 lĩnh vực của ngành công nghiệp văn hóa. Kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới sau năm 1986 nhiều lĩnh vực văn hóa đã có những biến chuyển và thành công đáng kể trong đó có thể nói đến như: ngành xuất bản, ngành quảng cáo, thủ công mỹ nghệ…Song những thành công ban đầu này không có tính bền vững và chưa thực sự mang lại những doanh thu đáng kể đối với kinh tế Việt Nam.
Khi Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách mới về Ngoại giao văn hóa năm 2009, văn hóa Việt Nam đã có những bước phát triển và tăng trưởng nhanh trong đó nhiều lĩnh vực thuộc ngành công nghiệp văn hóa cũng đã tạo được đột phát trong chặng đường phát triển. Ví dụ như lĩnh vực điện ảnh những năm gần đây ghi nhận nhiều thành công kể cả về mặt số lượng phim Việt phát hành mỗi năm; các giải thưởng trong khu vực và quốc tế cho đến doanh thu phòng vé. Lĩnh vực âm nhạc cũng ghi nhận những thành công đầu tiên khi một vài ca sĩ Việt Nam đã được công nhận và biết đến trong thị trường âm nhạc khu vực, một số album đã được phát hành ra nước ngoài. Đặc biệt nhất, lĩnh vực sản xuất trò chơi của Việt Nam đã có những bước tiến nhanh so với nhiều quốc gia trong khu vực và là lĩnh vực đem lại doanh thu lớn nhất trong số 11 lĩnh vực công nghiệp văn hóa hiện nay tại Việt Nam…
![]() |
![]() |
Ảnh trên: Một số ca sĩ Việt Nam đã được biết đến trong khu vực với những giải thưởng danh giá ví dụ như ca sĩ Thu Minh, ca sĩ Mỹ Tâm với giải thưởng âm nhạc MV Châu Á. Ảnh dưới: Không chỉ có Flappy Bird, game Đại Minh Chủ ( made in Viet Nam) cũng lọt vào Top doanh thu trên Apps...Đó là những thành tựu bước đầu trong chặng đường xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam |
Mặc dù có được những thành công nhất định như vậy nhưng ngành công nghiệp Văn hóa ở Việt Nam vẫn còn ở rất xa mốc của sự thành công, nếu không muốn nói là chúng ta chưa bước qua những bước đầu tiên trên chặng đường có một ngành công nghiệp văn hóa phát triển. Gần đây nhất, cuối năm 2013 tại diễn đàn “Kinh tế sáng tạo Châu Á và Châu Âu: Trụ cột mới của phát triển và tăng trưởng kinh tế” được tổ chức tại Hà Nội, các diễn giả quốc tế đã thẳng thắn nhận định: Việt Nam đang tụt hậu quá xa trong ngành Công nghiệp văn hóa thế giới. Điều đáng tiếc hơn cả là Việt nam có quá nhiều giá trị văn hóa nổi bật để làm tiền để cho sự phát triển một ngành công nghiệp văn hóa mạnh.
Nói về vấn đề này PGS.TS Lương Hồng Quang – Phó viện trưởng Viện Văn học Nghệ thuật Việt Nam cho rằng: Việt Nam có công nghiệp văn hóa nhưng thực sự nó chưa “ra hồn” nên nói là có cũng được mà nói là không có cũng đúng.
Thực trạng như vậy là do nhiều nguyên nhân lý do khác nhau như: không có nguồn lực kinh tế để xây dựng ngành công nghiệp văn hóa, đường lối chính sách của nhà nước chưa định hướng rõ; Thiếu một nền kinh tế hỗn hợp mà trong đó có đất cho ngành công nghiệp văn hóa phát triển; Cơ sở hạ tầng về văn hóa còn yếu...Theo PGS.TS Lương Hồng Quang thì nguyên nhân chính là do: Nhận thức và khái niệm cụ thể về công nghiệp văn hóa còn quá mơ hồ tại Việt Nam và chúng chưa có một chiến lược tổng thể để phát triển.
Với sự thành công từ việc xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa của nhiều quốc gia trên thế giới và thực tế rằng ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo đang dần trở thành xu thế phát triển chung trên toàn cầu, đã đến lúc Việt Nam cần nghiêm túc nhìn nhận và xây dựng hướng đi cho ngành công nghiệp văn hóa của quốc gia.
![]() |
Việt Nam có rất nhiều lợi thế để có thể phát triển ngành công nghiệp văn hóa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn góp phần phát triển kinh tế xã hội cả nước.. |
Cũng tại diễn đàn “Kinh tế sáng tạo Châu Á và Châu Âu: Trụ cột mới của phát triển và tăng trưởng kinh tế” được tổ chức tại Hà Nội cuối năm 2013, nhận định về khả năng xây dựng, phát triển ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam, TS Tom Fleming – chuyên gia về Công nghiệp văn hóa của Unesco cho rằng: Việt Nam tuy đi sau trong ngành công nghiệp văn hóa thế giới nhưng chính vì thế lại có điều kiện kế thừa và rút ra kinh nghiệm từ các nước đi trước trong xây dựng chính sách, tạo điều kiện phát triển thích hợp, đề ra phương hướng mang tính khả thi cho sự phát triển. Điều quan trọng là nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam đã nhận ra tầm quan trọng của giá trị văn hóa và chính sách văn hóa trong ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo. Văn hóa cũng tạo ra của cải, tạo công ăn việc làm, tạo ra thương hiệu quốc gia và đóng góp đáng kể cho nền kinh tế của đất nước.
Nhiều chuyên gia và nhà nghiên cứu quốc tế khác tại diễn đàn lại cho rằng để ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam phát triển thì quan trọng nhất là cơ chế chính sách và cách thức tổ chức. Chuyên gia William Codjo đến từ tổ chức Unesco cho rằng: muốn chiến lược và tầm nhìn khả thi thì phải có nền tảng đầu tư tốt, trong đó cơ chế tài chính là tiên quyết và cốt lõi trong phát triển ngành công nghiệp văn hóa….
Ý kiến của các chuyên gia quốc tế là vậy, còn việc Việt Nam thực hiện như thế nào, Bộ VHTTDL sẽ xây dựng bản Chiến lược phát triển ngành công nghiệp văn hóa ra sao vẫn còn đang nằm ở phía trước. Hy vọng rằng, với nguồn lực vốn có gồm: 7 Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, 8 Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, 4 Di sản tư liệu; hàng nghìn lễ hội truyền thống; bản sắc văn hóa của 54 dân tộc; hàng trăm các di tích cấp quốc gia và hơn 4000 năm lịch sử…Việt Nam sẽ sớm xây dựng và phát triển được một ngành công nghiệp văn hóa lớn trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần tạo công ăn việc làm và phát triển kinh tế quốc gia.
Nguyễn Hương