• Đường dây nóng

    0901.22.33.66 - toasoan@toquoc.gov.vn

  • Liên hệ quảng cáo

    091.358.6788

Nhà thơ “hóa giải nỗi buồn bằng sự thấu hiểu lẽ đời và quy luật”

07/03/2017 14:37

(Tổ Quốc) - Thu Nguyệt chọn cho mình một lối đi riêng. Thơ chị dịu dàng, đằm thắm, không đưa ra những phát ngôn gây sốc hay thể hiện một cách mạnh mẽ táo bạo cái tôi cá nhân. Chị lặng lẽ viết trên lối thơ truyền thống.

Nhà thơ Thu Nguyệt sinh năm 1963 tại Cao Lãnh, Đồng Tháp. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Hiện chị công tác ở Báo Tuổi trẻ TP.HCM. Thu Nguyệt viết ở nhiều thể loại, riêng về thơ của chị tập trung nhiều trong các tập: Điều thật (1992), Ngộ (1997), Cõi lạ (2000), Hoa cỏ bên đường (2002),  Theo mùa (2006). 

Điểm khác biệt giữa Thu Nguyệt với các nhà thơ nữ cùng thời đó là Thu Nguyệt chọn cho mình một lối đi riêng. Thơ chị dịu dàng, đằm thắm, không đưa ra những phát ngôn gây sốc hay thể hiện một cách mạnh mẽ táo bạo cái tôi cá nhân. Chị cũng không chạy theo trào lưu viết mới theo dấu ấn hiện đại, hậu hiện đại như nhiều người. Chị lặng lẽ viết trên lối thơ truyền thống. Với nhà thơ Thu Nguyệt, chị quan niệm: “Viết theo truyền thống hay hiện đại không quan trọng, cái quan trọng là chuyển tải được gì vào trong thơ và làm sao gây được sự cảm tình đối với độc giả mới là cái đáng quan tâm nhất”.

Nhà thơ Thu Nguyệt

Thu Nguyệt nhìn cái gì cũng có sự dung hòa, biện chứng, cái gì với chị cũng đều theo quy luật. Chính vì vậy cho nên, dù thấy trong thơ chị có nhiều nỗi buồn nhưng đó là cái buồn man mác, cái buồn vừa phải, không quá bi lụy, sầu thảm hay tuyệt vọng. Nỗi buồn trong trẻo, lấp lánh những tia hi vọng. Chị biết tiết chế nỗi buồn và hóa giải nó… Đọc thơ chị, người đọc nhận thấy: Thu Nguyệt - Nhà thơ “hóa giải nỗi buồn bằng sự thấu hiểu lẽ đời và quy luật”. Chị bình tâm suy xét, nghĩ suy về những điều xảy ra trong đời sống với cái nhìn đầy trách nhiệm, bao dung, tỉnh táo, bản lĩnh và đầy tự tin.

Ta ngồi ngắm mãi bàn tay

Ngửa rồi lại úp, ngắn dài trắng đen…

Biếng lười đếm giọt nhớ quên…

Nhẹ không…

                      lòng cứ hồn nhiên với buồn

(Hồn nhiên)

Điều mà Thu Nguyệt quan tâm nhất đó là vấn đề thời gian. Có những điều làm cho nhà thơ trăn trở, day dứt khôn nguôi, tưởng khó có thể lý giải; phải ngược về quá khứ, hướng đến tương lai mới có thể an lòng:

Ta tìm hoài gió trong nhau

Gió tan lại miệt mài đau suốt đời

Ta quên có một bầu trời

Bên ngoài ngọn gió có rồi lại tan

(Gió tan)

Từ Đồng Tháp chuyển về Sài Gòn công tác, trong chị không bao giờ quên mảnh đất quê hương nơi đã chôn nhúm rau mình ở đấy. Nơi gắn bó với bao ký ức niềm thương, với ông bà, cha mẹ, người thân, gia đình, hàng xóm, ruộng đồng, bờ bãi, sông nước… Vùng đất Đồng Tháp Mười đã ăn sâu trong từng tế bào, từng huyết mạch của chị. Do vậy, Thu Nguyệt nhớ lắm, nhớ những gì dân dã, chân quê của xứ sở mình. Dù đang sống nơi phồn hoa, phố thị nhưng chị vẫn canh cánh.

Thị thành dù giáp dấu chân 

Nằm mơ vẫn nhớ lời dân miệt đồng 

(Bến lở

Cái gốc quê không chỉ là máu thịt mà nó còn hun đúc bởi cái nôi văn hóa của vùng đồng bằng sông nước Cửu Long. Nỗi nhớ quê, nhớ cha lại trào dâng trong chị.

Đồng ruộng quê mình làm bằng dấu chân ba 

Từ đấy cần cù mọc lên ngọn lúa 

Con lớn lên trên cánh đồng ngậm sữa 

Đứng nơi nào cũng trên dấu chân ba 

(Dấu chân Ba

Để rồi nhà thơ tự giãi bày: Ta ra thành phố xa đồng/ Đốt nhang nhìn khói bay vòng mà thương/ Nhớ cồn cào nước kinh mương/ Vắng mình rải lá xem đường nước trôi/ Đã xa thì lỡ xa rồi/ Buồn! Đem thau nước ra soi bóng mình.

Chính quan điểm sống nó đã tạo nên cốt cách con người thơ và con người trong đời sống thường nhật của nhà thơ Thu Nguyệt. Con người thơ - và con người trong đời sống hòa làm một.

Điểm nổi bật và xuyên suốt trong thơ Thu Nguyệt đó chính là chị hướng đến và tìm đến cõi Thiền. Chùa, Thiền, Thiền sư, tiếng chuông, Chân Như, Bồ Đề, tu hành, tâm, ngộ, duyên, kiếp, bụi, nhang, đèn, phù du, vô thường… là những từ thường được chị sử dụng.

Kiếp phù du, giấc phù hoa

Lấy ai ru đá giùm ta sau này ?!

Thôi thì đá ngủ cho say

Để rồi thức giấc ngày mai một mình

(Ru đá)

Lời thơ nhẹ nhàng, trôi chảy cùng với dòng cảm xúc vô tận tạo nên những ấn tượng, dư ba.

- Giá được làm cỏ dại lan man

Vơ vẩn sống, phất phơ đời bên tháp

Vui với nắng sương, mưa trùm gió đập

Lặng lẽ đâm chồi, ta tự trùng tu

(Tháp Chàm)

- Nẻo tu hành cứ chung chiêng

Bước trầy bước trật… ưu phiền lắc lư

(Thiền giả)

- Gió nương mái cũ đi nhờ

Hiên nhà dấu nước vẫn chờ giọt mưa

(Vẫn y)

Nỗi buồn trong thơ chị bộc lộ nhiều sắc thái, cung bậc khác nhau nhưng theo chị tất cả đều có nguyên nhân. Chị quan niệm: cuộc sống con người trên trần thế chỉ là cõi tạm. Chính vì cõi tạm cho nên phải sống đúng nghĩa là con người, sống trọn vẹn, tha thiết với tình yêu và cuộc đời, sẵn sàng đón lấy và chấp nhận những buồn - vui như một sự thật hiển nhiên.

- Bước qua không nỗi chữ ngờ

Vô thường áp sát, bến bờ quá xa!

(An)

- Buồn vui như một cái vòng

Điểm đầu tiên, điểm cuối cùng gặp nhau

(Hồn nhiên)

- Bước đi là bỏ lại rồi 

Hành trang khéo giữ một thời cũng phai 

Thạch sùng nát lưỡi ru ai: 

Muốn về chốn cũ phải quay lại mình.

(Bước đi là bỏ lại rồi)

- Muốn được an (alt) cũng bó tay

Đời như kiếp chuột cứ xoay vòng vòng…

(Keyboard thơ)

- Ta băng qua sự buồn phiền 

Hiểu điều đã mất tự nhiên mãi còn ...  

(Sao đổi ngôi)                               

Giữa mơ và thực luôn là khoảng cách. Chị nhìn đời bằng con mắt thực tế nhưng cũng ngập tràn cảm xúc trữ tình, man mác.

- Con quỳ trước Phật từ bi/ Sao lòng vẫn nặng nỗi gì đa đoan/ Dám mơ đâu chút Niết Bàn/ Chỉ mong ngày động, tâm an một giờ (An).

- Lẽ đời nắng tắt mưa tuôn

Ta không có bóng vẫn còn có ta

Không cần trái, chẳng cần hoa

Xanh xanh vài chiếc lá là có cây

Lộc non chăm chút tháng ngày

Vậy rồi...

                ta thả lá bay theo mùa.

(Theo mùa)

- Cám ơn sự vật vô thường 

Để cho ta có khi buồn khi vui 

Vô thường tất cả, trừ... tôi 

Là chi cũng mãi khi vui khi buồn ! 

(Vô thường)

- Rủ sạch mình, em bước qua đêm 

Vo viên giấc mơ ném vào ngọn sóng 

Nhón gót đi giữa biển đời sâu rộng 

Xe cát hai hàng giọt nước mắt sau chân.

(Huyền thoại dã tràng)

Những bài thơ như: Chùa xa, Ước, Ru đá, Miền không bay… đưa người đọc đến ranh giới giữa thực và ảo, giữa xao động và bình yên. Đó là lúc thi sĩ đã chạm đến cõi Thiền - thâm nhập vào tận cùng mọi ngõ ngách của tâm hồn, kiếm tìm bản thể để hiểu mình, hiểu đời và tự giải thoát cho mình sau bao thăng trầm, nếm trải, bao vận hạn, tai ương…

- Tháng ngày nhẹ hững đi qua

Những điều gần đó rồi xa… thật thường!

(Sẽ đến rồi qua)

- Nghe lòng rung một hồi chuông

Tiếng vang như có lại dường như không

(Chùa xa)

- Gió lùa theo hướng chữ DUYÊN

Ta bay chung để đến miền không bay”.

Thơ lục bát có lẽ là một sở trường của nhà thơ Thu Nguyệt. Lục bát là một trong những thể thơ đậm chất trữ tình. Nó bắt nguồn từ ca dao, dân ca và thơ lục bát mang cốt cách Việt Nam. Cuộc sống bình dị của người lao động đi vào ca dao thông qua thể thơ lục bát dễ đi vào lòng người đọc và có sức lan tỏa. Từ văn học truyền miệng đến văn học viết, thể thơ này không ngừng được phát triển và đến ngày nay nó vẫn được kế thừa một cách có sáng tạo, có cách tân trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật.

Khảo sát thơ của Thu Nguyệt, ta thấy thơ lục bát chiếm số lượng lớn và nó đã góp phần không nhỏ tạo nên sự thành công của thơ chị. Ở thể thơ này Thu Nguyệt có nhiều bài thơ hay, hàm súc và ý vị, gây được ấn tượng sâu sắc đối với bạn đọc (Lá giả, Theo mùa, Gió tan, Miền không bay, Hồn nhiên…).

Đọc bài Lá giả gợi cho người đọc bao câu hỏi, bao suy ngẫm về con người, cuộc đời. Hóa ra kiếp người cũng chẳng khác chi kiếp lá (lá giả) - là tạm bợ, là tự “cải trang”. Chỉ có cái thật là bụi - những hạt bụi đời đeo bám. Chính vì là giả, cho nên chiếc lá giả kia không thực hiện được điều mà lẽ ra theo quy luật tự nhiên nó phải đạt được. Kết quả là “Cả đời làm một cuộc rơi không thành”..

Tuy nhiên, Thu Nguyệt không phải chỉ có kế thừa ca dao, dân ca. Thơ lục bát Thu Nguyệt vẫn mang hơi thở của thời đại. Nhà thơ đã mang đến cho thơ lục bát một không khí mới, một sắc thái mới: với những cách tân, sáng tạo độc đáo; tạo nên những vần thơ tươi mới, rộn ràng mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc. Hạt nhân làm nòng cốt cho cái mới của Thu Nguyệt là ở cảm xúc, ở dấu ấn cá nhân.

Cùng với tình yêu, thơ Thu Nguyệt viết về những mối quan hệ khác nhau xung quanh tình yêu, gắn bó và tiếp nối với tình yêu.

Trót sinh con buổi trăng rằm

Cho nên chữ hiếu như trăng khuyết tròn

Lạy ba lạy má đừng buồn

Xưa nay mưa nước từ nguồn đổ xuôi…

(Lời ru)

Đến với thơ Thu Nguyệt, người đọc sẽ tìm thấy một sự đằm thắm, dịu dàng và rất nữ tính. Đó là một thế giới tâm hồn có vẻ như khép kín mà luôn mở rộng, luôn chuyển tiếp, trôi chảy, hướng về ngoại vật, hướng về mọi người. Niềm vui, nỗi buồn được chị nhìn nhận và hóa giải nó trong thơ một cách tự nhiên. Đấy cũng là sức hấp dẫn khiến bao trái tim người đọc cứ mãi say sưa trong vườn thơ của chị.

Nguyễn Văn Hòa

NỔI BẬT TRANG CHỦ