(Tổ Quốc) - Ở tuổi ngoại bát tuần, nhà văn Ma Văn Kháng cho ra mắt tiểu thuyết Chim én liệng trời cao với gần 400 trang được phát triển từ truyện ngắn Chim én gần nửa thế kỉ trước.
Chim én liệng trời cao là khúc ca đẹp, hùng tráng về cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp của người dân vùng núi rừng Tây Bắc khoảng thời gian cuối những năm 40, đầu những năm 50 của thế kỉ trước.
Bối cảnh câu chuyện diễn ra tại địa bàn Cam Đồng - một xã gồm bốn thôn người Tày và một thôn U Sung trên núi cao thuần người Dao. Cuộc chiến đấu đầy gian khổ, sự trưởng thành của người dân về tư tưởng và tinh thần đấu tranh cách mạng thể hiện xuyên suốt qua nhân vật Tiển. Từ một cậu bé ở bản quê Cam Đồng hằng ngày ngồi trên lưng trâu, ngắm “bầy chim én cất tiếng rộn vang trên bầu trời sớm mai”, thổi sáo trúc bài “Chim én liệng trời cao”, Tiển sớm gia nhập vào hàng ngũ những người làm cách mạng, trở thành chiến sĩ liên lạc và trưởng thành cùng sự phát triển của cách mạng trên mảnh đất quê hương.
Bìa cuốn sách Chim én liệng trời cao |
Cuộc đời Tiển cũng giống như những con chim én khao khát được tung cánh trên bầu trời tự do, bất chấp bão giông cuộc đời, bất chấp sự kìm kẹp của bè lũ tay sai tàn bạo khét tiếng núp bóng thực dân xâm lược. “Những con chim én có tài bay liệng đáng được xếp vào bậc cao thủ… Khi lao vun vút như những mũi tên. Lúc dang rộng đôi cánh xoay vòng êm ả. Bầy sinh vật lông vũ lúc này như muốn chúng tỏ mình mới thật sự là những kẻ có đặc quyền tự do vừa tài ba vừa mạnh mẽ nhất thế gian. Mình là kẻ có sức mạnh chinh phục cả bầu trời bất chấp cả gió mưa giông bão.”
Tác phẩm cuốn hút người đọc theo giai điệu réo rắt mê say mà Tiển thổi trên lưng trâu thời thơ bé: “Noọng ơi! Én nhỏ trú cây đa lá/ Tán xum xuê ngàn năm vui xuân/ Bao đời che được mưa, che được nắng/ Dù mưa giông, gió bão chẳng lay/ Noọng ơi. Trời cao, chim én liệng chim én bay…”
Nhà văn Ma Văn Kháng khắc họa sinh động nỗi cơ cực của bà con miền núi dưới sự áp bức, bóc lột của lí trưởng Vi Văn Tăm thâm hiểm, tên đồn Tây Brusex tàn bạo, tổng Ngao hung ác khét tiếng, Vi Văn Dẻn lươn lẹo… Hết thuế thân, người dân phải lo nộp thóc gạo lợn gà cho đồn Tây, rồi bọn cai trị lại “lấy nước chạy cối ngàn độc quyền xay xát thóc gạo, không cho dân lấy nước làm ruộng”, ruộng tốt thì chúng chiếm cả, chỉ để lại cho dân những mảnh cằn cỗi. Có những người như anh Lẳng, bà cụ Trì phải ở đợ cho lí trưởng cả đời không trả hết nợ. Thanh niên trai tráng thì bị dồn đi phu đi lính phải bỏ mạng hoặc “may mắn trở về được thì chỉ còn cái xác người”.
Tác phẩm Chim én liệng trời cao cũng ca ngợi những chiến sĩ cách mạng dũng cảm, tài ba, những người tiên phong đến với vùng rừng núi Tây Bắc để giác ngộ cách mạng cho bà con, cùng người dân đánh giặc như anh Tố, Trần Hòa, hay Kim - “anh chàng tiểu tư sản học sinh rất khoái trò phiêu lưu mạo hiểm”.
Những mối tình thầm lặng, e ấp tựa bông hoa rừng buổi sớm mai như mối tình anh Tố - chị Va, mối tình giữa Tiển và Phin. Cùng với đó là những trang viết đẹp về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, với “nắng sớm phết lớp quang dầu bóng bẩy trên các chóp núi, hồng dâng cả một vùng rừng trúc”, với những “ngọn núi là đứng mãi ở lưng trời và những cánh rừng là trải ra mênh mang xanh mướt”. Rồi đến những nét văn hóa truyền thống đặc trưng như ngày hội lồng tồng “có cây nêu cao vút, những quả còn có túm đuôi dài xanh đỏ tím vàng bay phấp phới”, có trò đánh én, đánh đu, có đám múa sư tử. … khiến tác phẩm thêm mềm mại, nhiều sắc màu sống động.
Tiếu thuyết Chim én liệng trời cao góp phần làm phong phú thêm dòng sách văn học chiến tranh cách mạng, giúp độc giả hiểu thêm về chặng đường gian khổ mà không kém phần oai hùng của những người lính bộ đội Cụ Hồ và nhân dân Tây Bắc trong giai đoạn gây dựng lực lượng, chống lại âm mưu bành trướng của thực dân xâm lược. Tác phẩm cũng ngợi ca những con người chân chất, mộc mạc nhưng can đảm, nhanh trí, hết lòng vì sự nghiệp chung.
Nhà văn Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh ra tại Hà Nội. Ông từng là giáo viên dạy văn và hiệu trưởng một trường cấp ba tại tỉnh Lào Cai. Hơn 20 năm tuổi trẻ gắn bó với vùng đất này, dường như cuộc sống, văn hóa của người dân vùng núi rừng Tây Bắc đã trở nên máu thịt trong ông. Đây là lý do khiến nhà văn có hàng loạt tác phẩm có giá trị về cả đề tài miền núi lẫn miền xuôi. Ông nhận được nhiều giải thưởng cao quý trong sự nghiệp sáng tác: Giải thưởng Văn học ASEAN, Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật.