• Đường dây nóng

    0901.22.33.66 - toasoan@toquoc.gov.vn

  • Liên hệ quảng cáo

    091.358.6788

Nỗi lo thất truyền vốn văn hóa cổ

Văn hoá 19/04/2009 21:11

(Toquoc)-Nỗi lo thất truyền vốn văn hóa cổ của dân tộc khi thế hệ trẻ ngày một thờ ơ...


(Toquoc)- Một đất nước giàu bản sắc văn hóa với 54 dân tộc anh em và một kho tàng văn hóa khổng lồ nhưng nếu không được gìn giữ và lưu truyền thì sẽ dần mai một.

>> Khai mạc "Hội nghị Diên Hồng về văn hóa"

Tại Hội nghị Nhân sĩ, trí thức, già làng, trưởng bản và các nhà khoa học lần đầu tiên được tổ chức nhân Ngày hội văn hóa các dân tộc Việt Nam 19/4, các già làng, trưởng bản bày tỏ sự lo lắng thất truyền vốn văn hóa cổ của dân tộc khi thế hệ trẻ ngày một thờ ơ với văn hóa của cha ông.

Cồng, Chiêng, di sản văn hóa đã được UNESCO công nhận cũng không tránh khỏi nỗi lo mai một

Vốn cổ mất đi không bao giờ trở lại                     

Vốn cổ đang lắng đọng trong lớp người cao tuổi- những nghệ nhân, trí thức dân gian- những người luôn say mê và biết quý trọng vốn tài sản vô giá ấy nhưng quỹ thời gian còn lại của họ không nhiều. Thế hệ trẻ lại chưa có được ý thức giữ gìn, học tập, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa cổ đó.

Nghệ nhân Nông Văn Nhay- 70 tuổi, dân tộc Thái trắng xã Mường So, Phong Thổ, Lai Châu chia sẻ: Dân tộc Thái có 30 điệu Xòe cổ, trong đó có 7 điệu dành cho nghi lễ tín ngưỡng, 23 điệu cho vui chơi hội hè. Điều đáng nói là 30 điệu Xòe này hiện được bảy nghệ nhân đã rất cao tuổi lưu giữ (người trẻ nhất đã ngoài 70 tuổi, người già nhất ngoài 90 tuổi). Nhưng đáng nói nhất là việc truyền dạy các điệu Xòe trong dân gian từ lâu không còn được thực hiện, ngoài bảy nghệ nhân này, hiện ở Mường So không còn ai, đặc biệt là lớp trẻ càng không biết gì về các điệu Xòe ấy.

Cũng là người Thái nhưng đến từ Con Cuông- Nghệ An, ông Lê Hoàng cho biết: “Nghệ An hiện có 54 bản còn giữ được văn hóa truyền thống (làng cổ) nhưng chỉ là tương đối, vì một số bản cổ không hề có một cái nhà sàn. Các nhạc cụ như Cồng, Chiêng, khèn bè, sáo môi của dân tộc Thái, Khơ Mú, Thổ…và nghề truyền thống như rèn, đan lát của dân tộc Mông, Khơ Mú, Ơđu cũng đang mai một dần. Đặc biệt, văn hóa phi vật thể như chữ viết, phong tục tập quán, các tác phẩm văn học dân gian đang dần bị quên lãng. Trước đây, đồng bào Ơđu có chữ viết riêng, nhưng hiện nay, tìm được một người Ơ đu biết đếm từ 1 đến 10 bằng ngôn ngữ của dân tộc mình cũng khó”.

Một điều đáng lo ngại hơn là sự tác động nặng nề của kinh tế vào đời sống của đồng bào các tộc sẽ khiến những kho tàng văn hóa bị mai một mà nếu không nghiên cứu ngay sẽ không còn tư liệu.

Theo trưởng bản Cao văn Minh- dân tộc Chứt ở bản Lương Năng, xã Hóa Sơn, huyện Minh Hóa, Quảng Bình, dân tộc Chứt có gần 4000 người cư trú trên địa bàn 43 bản thuộc 13 xã ở huyện Tuyên Hóa, Minh Hóa và Bố Trạch. Người Chứt có đặc điểm du canh du cư, đời sống còn đơn sơ, chưa ổn định. Trong lịch sử sinh tồn và phát triển của mình, dân tộc Chứt chịu tác động nặng nề từ cuộc chiến tranh lâu dài và gian khổ của dân tộc chống lại thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mỹ. Hậu quả là người Chứt ngày càng bị đẩy vào rừng sâu, sống trong hang động và lèn đá (chữ Chứt tiếng dân tộc chính là lèn đá, núi đá) vì vậy, nhiều giá trị văn hóa bị thoái hóa, rơi rụng và lãng quên.

Đối với Cồng, Chiêng, di sản văn hóa đã được UNESCO công nhận cũng không tránh khỏi nỗi lo mai một. Ông A Thút dân tộc Ba Na, Phó Chủ tịch UBND xã Hơ Moong, Sa Thầy, Kon Tum cho biết: “Lớp trẻ ở Tây Nguyên học các nhạc cụ của dân tộc Kinh như ghi ta, piano thì nhanh chứ người theo học Cồng Chiêng không nhiều. Cuộc sống hiện đại làm người dân thích ở nhà Tây hơn ở nhà rông, nhà dài… các lễ hội cũng không được tổ chức thường xuyên nên nhà rông, nhà dài cũng không còn vai trò đặc biệt trong đời sống người dân nữa. Các bài bản Cồng, Chiêng dần mất đi”.

Cách bảo tồn tốt nhất là truyền dạy

Vàng bạc mất đi còn có thể khai thác lại được, vốn cổ mất đi thì vĩnh viễn không bao giờ trở lại- Nhà nghiên cứu Hoàng Đức Hiền- dân tộc Tày đã nhấn mạnh. Ông cho biết thêm: “Việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ là trách nhiệm của riêng ngành văn hóa mà cần có sự đồng lòng của các ngành, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị xã hội. Việc sưu tầm, khai thác không thể chỉ là sự đam mê của các nhà khoa học, đội ngũ cán bộ chuyên môn, các nghệ nhân mà phải là của toàn thể nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Đặc biệt, phải giáo dục cho thế hệ trẻ biết yêu quý và trân trọng tài sản chung của dân tộc, coi đó là trách nhiệm với tiền nhân và hậu thế”.

Nghệ nhân Nông Văn Nhay cho rằng: muốn nâng cao đời sống văn hóa tinh thần thì phải gắn với phát triển kinh tế, xã hội. Khi đời sống kinh tế đã khá lên thì trình độ dân trí sẽ cao lên. Thực tế, nhiều gia đinh các dân tộc thiểu số chỉ cho con học hết lớp 9, cùng lắm là hết lớp 12. Cá biệt là nhiều cháu còn mù chữ. Khi cái dốt vẫn đeo đẳng thì vấn đề tiếp thu văn hóa gì, hưởng thụ văn hóa gì khó mà được nhìn nhận đúng đắn và người ta sẽ chạy theo “mốt” lai căng, pha tạp…

Nghệ nhân Nông Viết Toại- dân tộc Nùng chia sẻ: “Hiện nay ngày hội của các dân tộc chỉ còn có bóng đá, bóng chuyền của giới trẻ. Ngôn ngữ, trang phục và cách ứng xử là ba mặt thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc cũng đang thay đổi. Nhiều gia đình dân tộc Tày, Nùng, ở địa phương tôi hiện nay nói tiếng Kinh trong sinh hoạt hàng ngày thay vì nói tiếng của dân tộc. Chúng tôi gọi đó là sự “đồng hóa tự nguyện”. Các chị em thì không mặc trang phục của dân tộc mình mà đều mặc áo dài trong các dịp lễ tiết... Đây là tư tưởng tự ti, thiếu tinh thân tự tôn, tự trọng”.

Thiếu tinh thần tự tôn, tự trọng có lẽ chính là “bệnh” chung dẫn đến thế hệ trẻ hiện nay không say sưa học tập và lưu giữ văn hóa cổ. Nếu bệnh này còn chưa được chữa trị thì làm sao để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của cha ông vẫn là câu hỏi chưa có lời đáp.

Bài&ảnh: Hồng Hà

NỔI BẬT TRANG CHỦ