(Tổ Quốc) - Sáng 9/8 tại Trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đã chủ trì cuộc họp với lãnh đạo một số bộ, ngành và Uỷ ban giám sát tài chính tiền tệ quốc gia đánh giá tình hình nợ nước ngoài quốc gia giai đoạn 2011- 2018 và việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2019.
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ chủ trì cuộc họp với lãnh đạo một số bộ, ngành và Uỷ ban giám sát tài chính tiền tệ quốc gia đánh giá tình hình nợ nước ngoài quốc gia giai đoạn 2011- 2018 và việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2019. Ảnh: Thành Chung
Nợ nước ngoài quốc gia tăng nhanh ở diện doanh nghiệp "tự vay, tự trả"
Theo Bộ Tài chính, trong giai đoạn 2011-2017, chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) có xu hướng tăng nhanh, bình quân tăng 16,7%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP theo giá hiện hành là 13,0%/năm trong cùng giai đoạn. Nguyên nhân do các khoản tự vay, tự trả của DN và tổ chức tín dụng bắt nguồn từ nhu cầu vốn tăng cao của các DN.
Đến cuối năm 2017, nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP ở mức 48,9%, sát với ngưỡng 50% được Quốc hội cho phép.
Đến ngày 31/12/2018, tổng nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP giảm xuống còn khoảng 46%, trong đó cơ cấu nợ nước ngoài quốc gia đều giảm. Cụ thể, nợ nước ngoài của Chính phủ còn 19,3% GPD, nợ nước ngoài của Chính phủ bảo lãnh còn 4,4% GDP, nợ nước ngoài tự vay tự trả của doanh nghiệp còn 22,3% GDP.
Tỷ lệ trả nợ so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ khoảng 25%, bảo đảm các quy định và thông lệ quốc tế.
Luật quản lý nợ công định nghĩa: "Nợ nước ngoài của quốc gia là tổng các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ vay nước ngoài được Chính phủ bả lãnh và nợ nước ngoài của doanh nghiệp (DN), tổ chức khác vay theo phương thức tự vay, tự trả".
Với kết quả nói trên, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ khẳng định chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia dưới mức trần được Quốc hội cho phép là không quá 50% và đang trong tầm kiểm soát của Chính phủ. Đặc biệt, nợ nước ngoài của Chính phủ giảm rất mạnh, tốc độ tăng nợ rất thấp.
Còn nợ nước ngoài Chính phủ bảo lãnh chiếm tỷ trọng nhỏ và xu hướng giảm. Năm 2018, Chính phủ đặt ra hạn mức bảo lãnh vay nợ 700 triệu USD nhưng đã không bảo lãnh vay quốc tế dự án nào mà ưu tiên vay vốn trong nước khi trong nước có khả năng và có lợi về lãi suất hơn.
Tuy nhiên, quy mô nợ nước ngoài quốc gia tăng nhanh, chủ yếu là nợ nước ngoài của doanh nghiệp và các tổ chức tài chính, tín dụng theo hình thức tự vay tự trả chiếm khoảng 48,4% tổng nợ nước ngoài quốc gia so với tỷ lệ 25,6% năm 2011 và 40,4% của năm 2016.
Phó Thủ tướng cho rằng việc tăng nhanh nợ nước ngoài theo hình thức tự vay tự trả chủ yếu nằm ở khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (chiếm 76% tổng lượng nợ của doanh nghiệp), tập trung ở một số doanh nghiệp FDI có quy mô lớn.
"Việc tăng nợ nước ngoài quốc gia tuy đáp ứng được nhu cầu vốn và huy động nguồn lực cho phát triển kinh tế- xã hội và tăng trưởng nhưng cũng tác động tới khả năng trả nợ nước ngoài của quốc gia", Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho biết.
Để bảo đảm an toàn nợ công nói chung và nợ nước ngoài của quốc gia nói riêng, cũng như ổn định kinh tế vĩ mô, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đề nghị các bộ, ngành tăng cường điều hành, quản lý nợ theo quy định của pháp luật như Luật quản lý nợ công, các Nghị quyết chuyên đề của Quốc hội, Chính phủ về nợ công nhằm bảo đảm đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế nói chung chứ không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn tự thân của DN, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các DN nói chung.
"Đặc biệt các chỉ tiêu về trần nợ công, chỉ tiêu nợ nước ngoài quốc gia, nghĩa vụ trả nợ so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ là các chỉ số quan trọng phải bảo đảm theo đúng yêu cầu của Quốc hội", Phó Thủ tướng nêu rõ.
Trong việc xây dựng kế hoạch nợ nước ngoài quốc gia và khả năng trả nợ trong giai đoạn tới, Phó Thủ tướng giao Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước phối hợp với các bộ, ngành hoàn thiện pháp luật quản lý nợ tự vay tự trả của DN, tập trung giám sát tổng nợ, cơ cấu nợ của các khu vực và có tính tới rủi ro đối với từng doanh nghiệp, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Bộ KH&ĐT rà soát, đánh giá tổng thể đầu tư nước ngoài, nhất là dự án lớn trên tổng nguồn vốn đầu tư; tác động của điều kiện vay nước ngoài tới mục tiêu tăng trưởng và thu hút FDI; chủ trì đề xuất khắc phục tình trạng vốn mỏng trong các dự án luật sửa đổi bổ sung Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và Luật thuế thu nhập DN.
Ảnh: Thành Chung
Khối ngân hàng đứng đầu về phát hành TPDN
Bộ Tài chính cho biết trong 6 tháng đầu năm 2019, tổng mức phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) là 116.085 tỷ đồng, tăng 7,4% so với cùng kỳ 2018, trong đó, ngân hàng thương mại phát hành 36.700 tỷ đồng (chiếm 36%), DN bất động sản là 22.122 tỷ đồng (19%), lượng phát hành của công ty chứng khoán chiếm 3,5%, còn lại là các DN khác.
Lãi suất TPDN bình quân là 9,5%- 11%/năm. Nhìn tổng thể là bằng và cao hơn khoảng 0,5% so với mức cho vay phổ biến của các NHTM.
Quy mô thị trường TPDN tới hết tháng 6/2019 có mức vốn hoá bằng 10,22% GDP, tăng 21% so với cùng kỳ 2018, vượt mục tiêu đặt ra là 7% GDP vào năm 2020.
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đánh giá thị trường TPDN có sự phát triển nhanh trong thời gian qua vì các DN có nhu cầu vốn lớn để sản xuất kinh doanh trong khi tăng trưởng tín dụng có xu hướng được quản lý chặt chẽ hơn, nhất là các lĩnh vực còn nhiều rủi ro như bất động sản.
Phó Thủ tướng đánh giá mặt tích cực của TPDN trong 6 tháng đầu năm là từng bước thành kênh cung vốn trung, dài hạn cho DN, giảm bớt áp lực cho vay của các NHTM, hỗ trợ các NHTM huy động vốn trái phiếu để tăng vốn cấp 2, hỗ trợ DN thuộc mọi lĩnh vực huy động vốn cho sản xuất kinh doanh. Kỳ hạn phát hành TPDN dài (kỳ hạn 5 năm chiếm 66% tổng khối lượng phát hành), các nhà đầu tư chủ yếu là nhà đầu tư có tổ chức, tỷ lệ nhà đầu tư cá nhân chỉ chiếm 6,1%.
Tuy nhiên, Phó Thủ tướng cho rằng nếu không kiểm soát tốt việc phát hành TPDN (với lãi suất huy động quá cao-PV) sẽ có rủi ro, ảnh hưởng tới thị trường tín dụng và cân đối vĩ mô.
"Lãi suất một số đợt phát hành cao từ 13- 14%, cá biệt có DN bất động sản phát hành tới 14- 15% cao hơn lãi suất cho vay của NHTM, các tổ chức tín dụng khác. Tổ chức phát hành trái phiếu DN hầu như chưa được xếp hạng tín nhiệm nên tiềm ẩn rủi ro cho nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư cá nhân không đủ thông tin phân tích rủi ro. 70% DN phát hành trái phiếu sử dụng tài sản và tài sản hình thành từ nguồn hình thành trái phiếu nhưng chưa được định giá bởi tổ chức định giá độc lập và khó xác minh các tranh chấp pháp lý. Vốn huy động có thể sử dụng chưa đúng mục đích do chưa có báo cáo sử dụng vốn có ý kiến của kiểm toán theo quy định của Nghị định số 163/2018/NĐ-CP. Và 98% các đợt phát hành là riêng lẻ", Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ khái quát.
Bên cạnh việc hoàn thiện, phát triển thị trường TPDN trong trung và dài hạn, Phó Thủ tướng giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành tiếp tục hoàn thiện dự thảo luật chứng khoán theo ý kiến của UBTVQH và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, trong đó rà soát quy định cụ thể phát hành trái phiếu riêng lẻ theo hướng chỉ dành cho nhà đầu tư chuyên nghiệp có năng lực phân tích tài chính và khả năng đánh giá rủi ro.
Đối với việc phát hành TPDN ra công chúng, Bộ Tài chính sửa đổi các quy định để rút ngắn quy trình phát hành, thúc đẩy DN huy động vốn theo phương thức này, gắn phát hành ra công chúng bắt buộc với xếp hạng tín nhiệm. Có thể chế, chính sách để phát triển dịch vụ xếp hạng tín nhiệm trong phát hành trái phiếu,...