Con đường từ “giai đoạn tìm hiểu” đi đến hôn nhân gia đình của những đôi trai gái tộc người Bru - Vân Kiều, là khá phức tạp nhưng trình tự thì khép kín bởi phải thực hiện nhiều lễ nghi theo quy định của luật tục. Chặng đường đó dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nhưng nó là không bằng phẳng vì đôi trai gái phải vượt qua nhiều thử thách cam go và tất nhiên trình tự là không thể rút ngắn, “đánh nhanh thắng nhanh” như những cuộc hôn nhân trong xã hội văn minh hiện đại được.
Con đường từ “giai đoạn tìm hiểu” đi đến hôn nhân gia đình của những đôi trai gái tộc người Bru - Vân Kiều, là khá phức tạp nhưng trình tự thì khép kín bởi phải thực hiện nhiều lễ nghi theo quy định của luật tục. Chặng đường đó dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nhưng nó là không bằng phẳng vì đôi trai gái phải vượt qua nhiều thử thách cam go và tất nhiên trình tự là không thể rút ngắn, “đánh nhanh thắng nhanh” như những cuộc hôn nhân trong xã hội văn minh hiện đại được.
Muốn có được hạnh phúc lứa đôi thì phải dựa vào tình yêu chân chính, mà có được tình yêu chân chính những đôi trai gái tộc người Bru - Vân Kiều phải trải qua giai đoạn tìm hiểu rất là nhiều khê. Ở bài viết này chúng tôi chỉ đề cập đến một “công đoạn” gọi là tìm hiểu hay còn gọi là tập tục “đi sim”, nó là bước đầu tiên của hôn nhân nhưng rất quan trọng đối với cuộc sống vợ chồng về sau. Hạnh phúc lứa đôi, hôn nhân và gia đình người Bru - Vân Kiều có bền vững hay không phần lớn phụ thuộc vào giai đoạn này.
Tuổi yêu đương, thời gian tìm hiểu đối với nam nữ tộc người Bru - Vân Kiều tương đối sớm, thường từ 14-15 tuổi, đây là tuổi trưởng thành theo quan niệm của đồng bào. Nó xấp xỉ, hoặc có muộn hơn một chút so với người Kinh chúng ta vì thời phong kiến cũng đã có quan niệm “nữ thập tam, nam thập lục”. Miễn là sau khi các nam nữ vị thành niên ấy đã làm xong thủ tục “cà răng, căng tai”, dấu vết của lễ thành đinh nguyên thủy còn sót lại ở các bản làng miền Tây Quảng Trị. Họ tìm hiểu nhau từ các buổi đi rừng, làm trên nương rẫy, trong các dịp hội hè, phổ biến nhất vẫn là trong các mùa “đi sim’.
“Đi sim” là một tập tục có từ lâu đời, là nét đẹp văn hóa, là khát vọng tự do yêu đương của nam nữ thanh niên tộc người Bru - Vân Kiều. Có người cho tục lệ đi sim hay “hát sim” (oat) là tiếng hát giao duyên đấu tranh những mùa sim. Nó tự nhiên như con cá phải được bơi trong nước, con chim bay trên trời, như con người cần ăn uống, nghỉ ngơi, vui chơi, hít thở không khí vậy. “Hát sim” là một nét đẹp văn hóa cổ truyền, giành riêng cho thanh niên nam nữ người Bru - Vân Kiều, kiểu như người Kinh hát Quan họ ở Bắc Ninh; hát ca trù ở vùng Kinh Bắc; hát ghẹo, hát đối đáp, hò giã gạo ở đồng bằng miền Trung…(1)
Tập tục “đi sim” thường diễn ra vào các mùa trăng, nhất là những đêm trăng sáng. Các chàng trai cô gái ban đầu tập trung ở các nhà rông (gươl) để chuyện trò, hát sim, thổ lộ tâm tình. Có khi họ tập hợp lại thành tốp năm tốp bảy kéo nhau từ bản này sang chơi bản khác. Cứ thế lúc về khuya trăng thanh gió mát, các “liền anh liền chị” khi đã có tình ý với nhau, họ dẫn nhau ra chòi rẫy, ra bên bờ suối thanh vắng để tình tự là tùy theo sở thích mỗi người, không ai quấy rầy ai lại là một lẽ tự nhiên khác.
Có thể nói một đêm hát sim có rất nhiều cao trào, rất nhiều cảm xúc chồng chéo lên nhau. Ngoài việc các đôi nam nữ hát cho nhau nghe những làn điệu dân ca của ông cha truyền lại, họ còn hát những bài hát do chính bản thân mình vừa sáng tác ra để thổ lộ tâm tình, để khoe tài trí bản thân. Không riêng gì đồng bào Tây Quảng Trị mà các tộc người thiểu số vùng Tây Bắc, Tây Nguyên đều có năng khiếu bẩm sinh đặc biệt này (xem chương trình “Du lịch qua màn ảnh nhỏ” trên kênh VTV2 sẽ thấy điều đó). Nam nữ thanh niên tộc người Bru - Vân Kiều không chỉ trổ tài trong khi hát mà còn sử dụng một số loại nhạc cụ “đặc trù” đệm cho người hát thể loại “oat”. Tiếng đan Talư (loại đàn 3 dây hoặc 2 dây đã được cải tiến) thánh thót thay lời nhỏ to tâm sự. Khi vui họ thổi sáo Khui lúc trầm lúc bổng, réo rắt, vi vu lan tỏa khắp cả đồi núi bản làng. Bên cạnh “Krào” là loại nhạc cụ cấu tạo rất đơn giản, làm bằng một thanh tre nhỏ vót mỏng dùng để nói lóng bằng cách lẫy nhẹ vào môi. Trong khi “A- mam” lại là một ống nứa nhỏ, một đầu có gắn lưỡi gà, trên thân ống có khoét lỗ để nhịp bằng tay. Khi thổi hai người ngồi chéo chân, người con gái ngậm một đầu ống sáo vào miệng, dùng khoang miệng làm hộp cộng hưởng; người con trai vừa thổi vừa nói lối bóng gió (a - cặm) rất phù hợp cho việc tỏ tình. Tất cả loại nhạc cụ này hết sức nhạy cảm và rất tài tình.
Như đã nói ở trên, tùy vào vị trí, tùy vào không gian và thời gian để những đôi nam nữ hát sim, tự tình. Dưới mái nhà gươl trăng sao vằng vặc các “liền anh” gởi gắm, thăm dò tình cảm các “liền chị” qua làn điệu oat(1).
Bóng em lấp lánh như sao mới mọc
Dáng em lấp lánh như vầng trăng đêm mười sáu
Ta đi tìm em, em ơi!
Tình em vời vợi như trăng đêm mười bảy
Ta đang lần tìm đến người, người ơi!
Để đáp lại và cũng là để thổ lộ nỗi lòng của mình, giọng hát của người con gái nào đó lãnh lót cất lên, kín đáo, tình tứ nhưng không kém phần cháy bỏng:
Nàng (tên một vì sao) ra đi đã tới gần chòm núi
Anh ơi! Sao anh vẫn chưa ngủ
Anh cứ “oát” hoài
Trên các chòi lúa rẫy
Anh có biết không?
Em ở chòi bên này chưa ngủ đợi anh
Muốn thổi kèn Amam nhưng lại thiếu một người
Kèn Amam không thổi một mình
Em biết thương ai bây giờ ngoài anh…
Đó là những dấu hiệu của sự cảm tình, cảm mếm. Và khi đã cảm tình riêng các chàng trai cô gái tự động tách ra để tìm đến nơi cần đến… trong khi ở đâu dó ngoài chòi rẫy, nghe bước chân chàng trai đến, người con gái đưa đón mời chào:
Nghe tin anh đến lòng em mãi đợi
Nghe tin anh đến tình em mong chờ
Thuốc hút ngon, trầu cau để sẵn
Đón anh tối nay
Em đón đầu đường
Em chờ đầu ngõ
Anh đến mừng khôn xiết
Bối rối muốn ôm anh…
Nghe những lời mời mọc như vậy, “liền anh” đã choáng ngợp mà vẫn thở than thăm dò:
Lời nói đưa, đừng để lòng anh xao xuyến
Tình thoáng qua, đừng để nỗi nhớ trong anh.
Anh chỉ như người mất hồn
Anh chỉ như người cuồng điên…
Dù có háo hức, táo bạo đi chăng nữa - trước những lời đáp từ của người con trai như thế, “liền chị” không thể không chùn lòng và suy tưởng mông lung. Chỉ chờ có thế, người con trai tiếp tục tấn công:
Như một trăm năm gặp một lần
Như mười năm gặp một dịp
Ta hãy chung vui trong phút chốc.
Cái siêng năng em hãy gác lại
Cái lười biếng em hãy cất đi
Ta cùng thức theo vầng trăng sáng đêm nay
Ta cùng vui theo năm tháng trọn đầy.
Càng về khuya “liền anh liền chị” quấn quýt xích lại gần nhau hơn, lời hát sim cũng tình tứ lạ thường. Làm sao cô gái Bru - Vân Kiều không khao khát được yêu người con trai khéo hát kia. Có chút tự ti, chút e thẹn qua lời nhắn yêu không chủ động như người tung chài sợ nước cuốn trôi… nhưng thực chất thì nàng đã yêu rồi:
Đêm nay e chỉ nhìn thấy mặt
Đêm nay em chỉ ngửi được hơi
Em chỉ là người trông theo bóng anh
Em chỉ là người đeo đuổi hình anh
Em chỉ là người mở cửa để trông
Em chỉ là người khép phòng để ngó…
Hoặc:
Trong lòng muốn nhưng Yàng không cho
Trong tim yêu nhưng ma Saveng không phù hộ
Em thẹn với ngôi nhà chung
Em dị với bản làng
Người con trai Bru - Vân Kiều bấy giờ chỉ biết dỗ dành, động viên người yêu nhưng vẫn không quên ra tiếp những “cú đòn” hiểm:
Em là người anh cậy cha mẹ đến cưới
Thương em đến nỗi sầu
Nhớ em đến nỗi ốm
Ước gì gan mật anh mãi mãi thuộc về em
Cứ thế tiếng lòng cô gái thổn thức, rộn ràng lên theo tiếng gọi tình yêu đôi lứa, thôi thúc nàng băng qua mọi rào cản. Và lời tỏ tình của nàng tỏ rõ quyết tâm:
Nếu mẹ không nhận con nữa cũng mặc
Ta đem nhau băng đồi
Nếu bố can ngăn mãi cũng mặc
Ta đem nhau vượt núi…
Chàng trai chỉ chờ có thế, sao còn bình tĩnh suy đoán, đánh giá tình cảm nồng nhiệt của người yêu bằng cách “nắn gân”, đưa ra thử thách: Chúng mình ăn cơm chỉ đủ thấm ruột/ Chúng mình uống nước chỉ đủ thấm gan…Song trước quyết tâm của người yêu nên chàng đã cất lên tiếng hát mạnh bạo, quả quyết và dứt khoát rằng thà chết chúng mình vẫn cứ yêu nhau:
Thà chết một bố
Thà lấp chung một nấm đất
Để bản làng đều thương
Cho thiên hạ đều nhớ…
Thật đã quá ngỡ ngàng, vì có thật một khi hai trái tim đập cùng một nhịp thì hai thể chất kia có thể mất đi ư? Thật sự là ai cũng phải bất ngờ, ai cũng phải ngỡ ngàng trước những quyết định vừa táo bạo vừa rất “hiện đại” này: Mất nhưng tình yêu của họ vẫn còn. Nỗi buồn vẫn còn. Khát vọng vẫn còn… và một khi hai người đã “hát sim” được như vậy cũng có nghĩa là họ đã yêu nhau.
Như đã phân tích và giới thiệu trình tự tập tục “đi sim” cho thấy, thái độ các đôi trai gái là hết sức lịch sự, chân thành; họ ứng xử với nhau không chỉ bằng văn hóa mà còn ở đẳng cấp cao. Tất nhiên có thể có vài ba đôi trai gái do trong quá trình tìm hiểu, tình cảm đã quá chín muồi hoặc không tự kiềm chế được bản thân dẫn đến những “lỡ lầm” mang tính bồng bột… Ở giai đoạn tìm hiểu (tiền hôn nhân), luật tục của người Bru - Vân Kiều có nhiều chế tài rất nghiêm khắc, không thể tự ý làm khác hay tùy tiện được. Nam nữ trước khi tính đến chuyện hôn nhân phải trải qua quãng thời gian tìm hiều; khi tình cảm và sự chọn lựa đã chín muồi, phải được sự mai mối của ông bà mối; được sự đồng ý của hai gia đình, hai dòng họ trước. Bất luận trong mọi trường hợp, con cái chưa được sự đồng ý hoặc cưỡng lại quyết định của cha mẹ, tự ý thực hiện những điều không được phép làm đều bị ghép vào tội bất hiếu. Trong luật tục cũng như quan niệm của đồng bào Bru - Vân Kiều, khi chưa là vợ chồng của nhau thì tuyệt đối không được quan hệ tình dục với nhau, vì làm vẫn đục danh dự dòng họ và làm kinh động đến thần linh. Từ tìm hiểu đến hôn nhân là quá trình xác lập dần về mặt tín ngưỡng tâm linh đối với thần linh thông qua các lễ nghi bắt buộc; chưa báo cáo với Yang mà tự ý quan hệ sẽ bị trừng phạt. Luật tục quy định rõ mọi vi phạm quan hệ trước hôn nhân đều phải cúng Yang hoặc nặng hoặc nhẹ. Trong trường hợp người con trai chạy lỗi, gia đình phải bồi thường danh dự cho nhà gái; phải nộp phạt gấp đôi và làm lễ cúng Yang. Người con gái quan hệ một người đỗ lỗi cho người khác phải tự gánh chịu lấy hậu quả, phải xin lỗi gia đình mình vu oan. Trong trường hợp lỡ quan hệ nhưng đôi trai gái tỏ ra biết ăn năn hối lỗi, già làng sẽ xem xét cho hưởng hình phạt nhẹ những buộc phải cúng Yang và tạ lỗi với dòng họ. Rõ ràng đây là những quy định quan trọng và tiến bộ trong hôn nhân của người Bru - Vân Kiều, nó có tác dụng chế tài và giáo dục tầng lớp nam nữ thanh niên vừa thiết thực vừa cụ thể trong quan hệ ứng xử cũng như tôn trọng và bảo vệ danh giá đôi bên gia đình, dòng họ, bản làng.
Trên thực tế sau mỗi lần đi sim chàng trai thường tặng cho cô gái mình yêu những vật làm tin như vòng bạc, chuỗi cườm. Nếu cô gái nhận những vật kỷ niệm tức là đã thầm ước hẹn nhưng đó chưa phải đã là đính ước. Ngược lại cô gái từ chối không nhận lễ vật có nghĩa là không đồng ý cho chàng trai tiếp tục tìm hiểu, anh ta phải đi tìm đối tượng khác. Những lễ vật làm tin cũng có thể hoàn trả lại nếu như trong quá trình tìm hiểu có trục trặc nào đó dẫn đến đôi trai gái không thành vợ chồng. Theo tục lệ của đồng bào Bru - Vân Kiều một người con trai chưa vợ (lâu la) hay một cô gái chưa chồng (cu môr) tìm hiểu hoặc làm quen với nhiều đối tượng khác nhau là một hiện tượng hết sức bình thường vì chỉ có như vậy họ mới tìm được cho mình cái gọi là “người tình trăm năm” hay “người tình lý tưởng” (kà răm)- mẫu người mơ ước của các chàng trai, cô gái. Những tiêu chuẩn để trở thành “kà răm” giữa một “chàng trai lý tưởng” (lâu la kà răm) hoặc một “cô gái lý tưởng”(cu môr) về cơ bản không cách biệt nhau gì nhiều lắm mà chỉ là những khác biệt về giới tính. Nếu là con trai phải có ngoại hình cân đối, khỏe mạnh, trung thực, dũng cảm, có nhiều kinh nghiệm trong lao động sản xuất hoặc sản xuất giỏi; trong khi mẫu người con gái lý tưởng là con người siêng năng, lao động giỏi, hiền hậu, có tài nội trợ, có ngoại hình cân đối hoặc múa hát giỏi… Như vậy trong việc chọn lựa người yêu nam nữ thanh niên Bru - Vân Kiều đều chọn tiêu chí lao động giỏi là tiêu chuẩn chọn lựa hàng đầu. Điều đó hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế và địa bàn cư trú của đồng bào miền Tây; cần cù, siêng năng, chăm chỉ, biết yêu quý lao động, biết lo toan việc gia đình chính là cái đẹp. Tìm trong kho tàng ca dao, dân ca, chúng ta bắt gặp rất nhiều câu hát thiết thực mà gần gũi gắn với mẫu người lý tưởng. Đây là mẫu người con trai đẹp được nhiều cô gái yêu thương, săn đuổi:
Vắng nơi ăn uống
Lại thường có mặt nơi việc chung của làng
Xa nhà chàng xếp đầy đầu thú
Bếp nhà chàng xếp đầy xương các to
Đò sắt chàng rèn, rựa như có mũi
Móng tay chàng mòn vì đan những chiếc gùi cho em…
Hoặc:
Ôi em đẹp lắm, người thương ơi!
Nhà em lúa đầy bồ, đàn heo nung núc…
Và khi đã tâm đầu ý hợp, đôi nam nữ Bru - Vân Kiều thấy không thể nào xa nhau được nữa họ sẽ về báo cho bố mẹ mình biết. Bố mẹ đồng thuận sẽ nhờ ông mai bà mối (Khanlrana), thông thường là ông cậu đánh tiếng cho nhà gái biết. Thường thì ít khi bố mẹ không đồng ý vì hơn ai hết họ là những người rất tôn trọng việc lựa chọn người yêu của con cái mình. Kanlrana (ông cậu) có một vai trò hết sức quan trọng, ông thay mặt nhà trai đi lại thăm hỏi, bàn bạc với nhà gái nhiều lần. Dù có tốn kém nhưng mỗi lần đến nhà gái, nhà trai đều chuẩn bị cho ông cậu những món quà tình cảm giao đãi như con gà, gạo nếp, chén rượu… Kanlrana đóng vai trò ngoại giao, thông báo tiến triển công việc cho hai bên gia đình biết và khi câu chuyện hôn nhân giữa hai gia đình đã chín muồi, không có gì cản trở nữa nhà trai sẽ tiến hành lễ ăn hỏi (poôcplô căm pay) và sau khi chọn được ngày lành tháng tốt, gia đình hai họ sẽ tiến hành tổ chức đám cưới cho đôi bạn trẻ.
(Tạp chí Cửa Việt)