(Toquoc)- Đến với Thổ Hà, dấu tích của nghề gốm vang bóng một thời vẫn còn hiển hiện trong những bức tường ngõ cổ và bức tường nhà xây toàn bằng những mảnh gốm vỡ hay tiểu sành phế phẩm, không dùng chút vôi vữa nào, chỉ dùng bùn của sông Cầu để kết dính.
(Toquoc)- Thổ Hà, ngôi làng cổ bên dòng sông Cầu, thuộc xã Vân Hà, huyệt Việt Yên, tỉnh Bắc Giang mà đâu đó phảng phất phong vị hữu tình, cây đa, bến nước, sân đình, những nếp nhà cổ san sát nằm sâu trong các ngõ hẻm. Khác với các làng ở đồng bằng Bắc Bộ, người dân Thổ Hà bao đời sống bằng nghề thủ công và buôn bán nhỏ ven sông nước. Làng Thổ Hà còn nổi tiếng về nghề làm gốm, các sản phẩm gốm Thổ Hà đã được dùng để xây dựng chùa Hà, ở quận Cầu Giấy, Hà Nội và có cả khu phố cổ Hàng Chĩnh ở Hà Nội chuyên bán sản phẩm gốm Thổ Hà như: chum, vại, chĩnh, hũ…
Cổng làng Thổ Hà
Đến với Thổ Hà, dấu tích của nghề gốm vang bóng một thời vẫn còn hiển hiện trong những bức tường ngõ cổ và bức tường nhà xây toàn bằng những mảnh gốm vỡ hay tiểu sành phế phẩm, không dùng chút vôi vữa nào, chỉ dùng bùn của sông Cầu để kết dính. Vẫn là con đường xưa, còn đó những nếp nhà rêu phong, mái đình cong trầm mặc vắt ngang qua chiều dài lịch sử văn hóa Việt; ngôi chùa cổ kính hàng trăm năm tuổi là một trong những di tích cấp quốc gia được công nhận sớm nhất, năm 1960. Bầy trẻ khoác trên mình những manh áo mỏng giữa ngày đông giá rét ngồi vắt vẻo trên cành cây ven sông, vừa ngơ ngác nhìn khác lạ vào làng, vừa reo hò như xài một món độc quyền của trẻ con nơi thôn dã.
Dù ngày nay, nghề làm gốm Thổ Hà đã mai một nhưng những người có tâm huyết với nghề gốm vẫn không ngừng suy nghĩ về việc khôi phục nghề gốm cổ hàng trăm năm tuổi. Theo lời một nghệ nhân từng giữ lò gốm duy nhất còn lại của Thổ Hà thì, phục hồi gốm ở Thổ Hà hoàn toàn có thể thành công ở quy mô hộ gia đình, quy mô nhỏ sẽ kích thích sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong từng sản phẩm của chính mình. Ông chủ mới Nguyễn Đăng Tập của lò gốm này cho biết, gốm Thổ Hà không dùng men, được nung ở nhiệt độ cao khoảng 1200-1300độC, để tự chảy nhựa men ra từ đất và thành sành, gốm màu nâu sẫm, thâm tím đanh mặt, gõ vào tiếng kêu coong coong như thép, mảnh gốm có cạnh sắc như dao, đựng chất lỏng không bao giờ thấm qua, đựng chất rắn đậy chặt không bao giờ ẩm mốc. Thi thoảng bây giờ vẫn có khách từ các vùng khác như Hà Nội, Lạng Sơn, Trung Quốc, khách Nhật và cả khách châu Âu trong các tour du lịch cũng ghé thăm lò gốm này.
Tôi thật sự chia sẻ với câu nói của đồng chí Nguyễn Anh Minh, Bí thư Huyện ủy Việt Yên: Làm nên một thương hiệu rất khó, có khi phải mất chục năm, trăm năm, thậm chí là cả ngàn năm, chứ làm ra một sản phẩm chỉ mất chưa đầy một phút. Gốm Thổ Hà đã từng là một thương hiệu mạnh, tồn tại 7-800 năm nay trong ký ức của bao thế hệ người Việt, làm sao có thể mất đi một sớm một chiều được? Bởi đây là một trong ba trung tâm gốm sứ cổ xưa nổi tiếng nhất của người Việt bên cạnh làng gốm Phù Lãng (Quế Võ, Bắc Ninh) và Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội). Sản phẩm của làng nghề này đã có thời nổi danh khắp thiên hạ. Từ lúc có nghề gốm đến cuối những năm 80, cả làng chỉ sống bằng nghề gốm.
Nhìn đôi bàn tay chai sần và nét mặt đăm chiêu của người thợ trẻ Nguyễn Đăng Tập, tôi thấy từ trong thẳm sâu ánh mắt ấy lóe lên một tia sáng của niềm hy vọng, như lời nhắn nhủ rằng gốm cổ Thổ Hà sẽ được phục dựng và phát triển trong một tương lai gần.
Đình làng Thổ Hà
Thổ Hà, không chỉ có nghề gốm cổ truyền, mà còn có một di sản kiến trúc của làng cổ Thổ Hà, trong đó có ba di tích lịch sử văn hóa được nhà nước công nhận là Đình, Chùa và Văn Chỉ, với gần hai chục tấm bia đá ghi bằng chữ nho ở cả hai mặt. Cổng làng Thổ Hà có kiến trúc đẹp, bề thế và cổ kính, là một trong những cái cổng đẹp nhất ở vùng hạ và trung lưu sông Cầu. Quanh khu vực cổng làng, đình và chùa có rất nhiều cây đa đều hàng trăm năm tuổi. Trong làng vẫn còn lưu giữ được một số ngôi nhà cổ xây dựng cách đây trên 100 năm, tiêu biểu cho các ngôi nhà cổ thuộc khu vực đồng bằng Bắc Bộ.
Chúng tôi đến thăm đình Thổ Hà, một ngôi đình nổi tiếng của xứ Kinh Bắc. Đình thờ Thân Cảnh Phúc, là vị Tướng đời nhà Lý, người dân tộc Tày đã có công lớn trong kháng chiến chống quân Tống. Người thủ nhang cho biết, đình là một công trình kiến trúc với nghệ thuật điêu khắc độc đáo trên khu đất rộng khoảng 3.000 m², được xây dựng năm 1685 thời vua Lê - Chính Hòa năm thứ 7. Đến năm 1807 (Gia Long năm thứ 5) xây dựng tiền tế và hai nhà tả vu, hữu vu. Đình đã từng được chính quyền Pháp xếp hạng trong Viện bảo tàng Bác Cổ Đông Dương và được nhà nước ta công nhận là Di tích lịch sử văn hóa từ năm 1960.
Đình làng Thổ Hà được xây dựng theo kiểu chữ công, toà bái đường rộng 432m2, xung quanh bó đá tảng xanh ba cấp, mái đình lợp ngói mũi hài to bản, bốn góc là những đầu đao cong vút. Góc mái có gắn nghê, thú nhỏ bằng sành nung già lửa đỏ tía. Đặc biệt có khá nhiều hình thiếu nữ mặc váy dài, yếm, tóc búi hoặc chít khăn với nét mặt rạng rỡ trong tư thế cưỡi phượng, đè rồng, hoặc đang nhảy múa giữa các lớp mây bồng bềnh. Bức cửa võng thếp vàng chạm trổ lộng lẫy làm cho bái đường càng thêm trang nghiêm cổ kính.
Trong đình có ba tấm bia lớn là: Thủy tạo đình miếu bi, Cung sao sự tích thánh, Bia sao sắc phong. Có lẽ một trong những điều thu hút sự chú ý của du khách chính là nội dung được ghi ở tấm bia Thủy tạo đình miếu bi. Tại đây, mô tả khá kỹ địa hình núi sông của làng Thổ Hà: phía Đông đẹp đẽ như rồng quay về chốn tổ; phía Tây hùng vĩ như dáng hổ ngồi chầu; phía Nam có núi Hằng Lĩnh và dòng sông Nguyệt Đức, đó là sách trời đã định; phía Bắc có ngọn núi Lát, hun đúc khí thiêng cho dải đất Thổ Hà. Từ địa thế này làng đã sản sinh ra những bậc anh tài, giỏi dang, đỗ đạt, làm quan văn võ, áo đỏ tía rực rỡ chốn triều đình. Cũng từ mảnh đất này, nghề bán buôn, làm ăn sinh sôi, phát triển nhiều người giàu có, nhà nào cũng có nghề gốm phát đạt.
Đến thăm Văn chỉ (quán văn) làng Thổ Hà được xây dựng vào thế kỷ 17 thờ các vị tiên hiền như Khổng Tử, Chu Văn An. Nơi đây được coi là cái nôi của nền học thức Thổ Hà và là địa điểm thu hút khá đông khách đến tham quan, nhất là vào mùa thi cử. Các sĩ tử đến đây thắp hương, lễ bái với tấm long thành kính mong được đỗ đạt hiển vình. Văn chỉ làng Thổ Hà đã được nhà nước công nhận là Di tích lịch sử văn hóa từ năm 1999.
Chùa Thổ Hà có tên là Đoan Minh Tự cũng là một di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Chùa được xây dựng theo kiến trúc nội công, ngoại quốc, bao gồm tam quan, gác chuông và tiền đường. Tam quan chùa kề sát ngay sau đình. Gác chuông và tiền đường được chạm trổ lộng lẫy với các đề tài rồng mây, hoa lá… Trong chùa có tượng Phật tổ Như Lai cỡ lớn và tượng Phật bà Quan Âm ngự trên tòa sen. Từ tòa Tam bảo theo hai dãy hành làng vào tới Động Tiên là một công trình kiến trúc rất quý hiếm. Động Tiên ghi lại đầy đủ hình ảnh Thích Ca từ lúc mới sinh ra, lúc trưởng thành và khi từ bỏ kinh thành vào động tu hành rồi đắc đạo.
Vẻ đẹp cổ kính, thuần Việt, sự hồn hậu, mến khách của người dân là một lợi thế lớn cộng với quãng đường từ Hà Nội đến đây nếu đi theo đường từ Bắc Ninh chỉ khoảng 35km. Do vậy Thổ Hà đang là một địa chỉ quen thuộc, hấp dẫn của khách du lịch trong và ngoài nước, của những người nghiên cứu về kiến trúc và mĩ thuật, của những nghệ sĩ và nghệ nhân về đây tìm cảm hứng. Quanh khu vực làng Thổ Hà, người ta có thể ghé qua thăm hai di tích nổi tiếng khác là chùa Bổ Đà ở xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, chùa Vĩnh Nghiêm, một trung tâm Phật giáo lớn thờ tam Phật tổ Đệ nhất Tổ Trần Nhân Tông, Đệ nhị Tổ Pháp Loa và Đệ tam Tổ Huyền Quang ở huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang và đền Bà Chúa Kho, ở xã Vũ Minh, thành phố Bắc Ninh./.
Ghi chép của Đỗ Ngọc Yên