(Toquoc)-Nguyễn Phan Chánh đã trở về cõi thiên thu ngót nghét 30 năm, nhưng tài năng và nhân cách của ông sẽ là tấm gương sáng mãi cho những thế hệ họa sĩ Việt Nam học tập.
Khi một người Anh mang bức tranh của danh họa Nguyễn Phan Chánh với tựa đề La Marchande de Riz (The Rice seller – Người bán gạo) vẽ từ năm 1932 đến trụ sở nhà đấu giá Christie ở London, Anh, nó bị nhầm là bức vẽ của một thực tập sinh người Trung Quốc và định giá chỉ 75 USD. Bức vẽ được chuyển về Hongkong, người ta chợt nhận ra chân giá trị nhờ chữ ký họa sĩ ở góc tấm toan. Người bán gạo sau đó được định giá khoảng 800.000 tới 1 triệu USD Hongkong.
Tuy nhiên, trong phiên đấu giá ngày 25/5, Người bán gạo được Pascal de Sarthe, một người sưu tầm tranh ở Hongkong, mua với giá 3,03 triệu USD Hồng Kông (khoảng 8 tỉ đồng), trở thành bức tranh đắt giá nhất do một họa sỹ Việt Nam vẽ.
“Nguồn gốc hoàn hảo. Khung ban đầu được người thợ ở Paris nổi tiếng là Gardin đóng và bức tranh này từng được trưng bày ở Napoli năm 1934”, Jean-Francois Hubert, chuyên gia tư vấn cao cấp về nghệ thuật Việt Nam cho cho biết.
Còn chủ sở hữu mới của bức tranh thì ca ngợi: “Không bao giờ là quá đắt khi bạn tìm thấy một sản phẩm thực sự ưng ý. Tôi và vợ dự định sẽ treo ở phòng ngủ. Đây là một bức vẽ hiếm có và còn lưu giữ trong tình trạng tuyệt vời”.
Và câu chuyện về một tài năng thấm đẫm tâm hồn Việt, người đã đặt nền móng đầu tiên cho ngành tranh lụa Việt Nam được nhiều người yêu nghệ thuật trong nước và thế giới biết đến.
Không có nhung lụa nào trải cho định mệnh tài năng Nguyễn Phan Chánh…
Họa sĩ Nguyễn Phan Chánh sinh ngày 22-7-1892 trong gia đình nhà nho nghèo ở một tỉnh miền Trung gió Lào và cát trắng - Hà Tĩnh. Cha mất sớm, tuổi thơ của ông trôi đi bên dòng Tân Giang nơi Thành Sen quê ngoại... Có năng khiếu vẽ từ nhỏ, ông may mắn được thụ giáo ông thầy vẽ trong huyện, tập vẽ những bức tranh mô phỏng theo các tích truyện Tàu hay tranh dân gian, thuỷ mặc, rồi đem bán ở chợ Tết, giúp mẹ nuôi các em ăn học.
Cuộc sống tuổi thơ vất vả nơi miền quê nghèo không dập tắt ước mơ mà trái lại nó khiến cho tâm hồn người nghệ sỹ đa cảm ngày càng được hun đúc, chắt lọc, có khi run lên những rung cảm tuyệt vời về vẻ đẹp chân quê, dân dã của đời sống thôn quê thường nhật. Cảm xúc được tiết ra ngòi bút với bức vẽ đầu tay khắc họa hình ảnh thiếu nữ vấn khăn đen, gương mặt bầu bĩnh dưới vành nón thúng quai thao, dáng vẻ dịu dàng trong chiếc áo dài nâu, quần lĩnh đen đang ngồi tựa gốc cây ngắm mặt trời lặn sau đỉnh núi mờ xa; đàn chim xoải cánh bay trong cảnh hoàng hôn tím hồng. Vẻ đẹp giản dị, mộc mạc, chân quê này đã theo suốt sự nghiệp sáng tác của ông và đưa ông đến đỉnh cao của nghệ thuật hiện thực dân tộc.
Nguyễn Phan Chánh từng làm thầy giáo ở phủ Thạch Hà, sau đó vào Trường Quốc học Huế, rồi dạy ở Đông Ba mà vẫn không ngơi bút vẽ. Huế mộng và thơ bồi đắp cho tâm hồn nghệ sĩ những câu mái nhì mái đẩy càng thôi thúc ông thêm si mê nghề vẽ. Ông mạnh dạn thi vào Trường Mỹ thuật Đông Dương trở thành một trong những sinh viên đầu tiên của trường đại học về ngành mỹ thuật danh giá bậc nhất này khi đã ở tuổi 33.
Trong những năm đầu của khóa học, Nguyễn Phan Chánh không mấy thành công ở chất liệu sơn dầu. Chính thầy Victor Tardieu, đã hướng ông sang lối vẽ phương Đông truyền thống và giúp ông tìm hiểu về hội họa cổ Trung Hoa. Với Tardieu, Nguyễn Phan Chánh trở thành người chịu ơn về ý tưởng này.
Nhưng vượt lên sự gợi ý để tạo lập lên một tên tuổi lớn, thông qua một loại vật liệu kỳ lạ, trước đó chưa một hoạ sỹ nào biết đến mới là Nguyễn Phan Chánh.
Đó là sự trả ơn người đã mang ánh sáng của hội hoạ châu Âu vào xứ thuộc địa – Victor Tardieu.
Tại sao lại là lụa?
Có phải Nguyễn Phan Chánh đã từng nhìn thấy mẹ mình, chị mình và xa hơn là những người phụ nữ Việt Nam đã đẹp thân mình vì lụa. Lụa đẹp như ca dao, dân ca, như lời ru, lại như một cánh cò. Lụa làm nên phẩm chất nhà quê thân thiện, thôn dã trong thơ Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử và cao hơn là Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Lụa làm nên phẩm chất thời trang Việt. Đẹp trong cả lam lũ lẫn chốn cung đình.
Những năm cuối ở trường, Nguyễn Phan Chánh miệt mài tìm tòi, nghiên cứu, thể nghiệm chất liệu lụa và đã tiến một bước dài trong việc cách tân nền hội họa Việt Nam với một loạt tác phẩm có giá trị ra đời: Bữa cơm, Em bé cho chim ăn, Lên đồng, Những người hát rong… Đặc biệt, bức Chơi ô ăn quan, trên nền lụa trắng ngà chỉ có hai màu nâu, đen, Nguyễn Phan Chánh làm người xem ngỡ ngàng khi vẽ những em bé chơi trò mà không nghịch ngợm, chăm chú và điềm tĩnh, ngây thơ mà tư lự...
Tranh lụa "Chơi ô ăn quan" nổi tiếng của họa sỹ Nguyễn Phan Chánh.
Năm 1931, tại Paris, mọi người sững sờ trước nét vẽ mềm mại, thanh thoát trên nền lụa Phương Đông óng ả... Các quan chức, báo chí ở Ngã - Tư - Ánh - sáng lũ lượt chúc mừng và tới tấp đưa tin về sự tài hoa của một họa sĩ Việt. Và rồi Ý, Bỉ, Mỹ, Nhật. Chơi ô ăn quan cũng vì thế mà trở nên nổi tiếng về sự độc đáo, mẫu mực về sự sáng tạo nghệ thuật.
Vẽ trên lụa tức là chạm tay vào một dòng sông chảy chậm…
Êm đềm. Mờ ảo. Dễ vỡ. Không bắt được. Siêu thoát.
Nguyễn Phan Chánh là tác giả của những dòng sông tranh như thế.
Trong tất cả các sáng tác của Nguyễn Phan Chánh, mỗi tác phẩm đều có một bài thơ viết kiểu chữ Thảo rất đẹp bên cạnh. Thơ, họa và thư pháp luôn song hành cùng nhau, hỗ trợ và tôn lên vẻ đẹp của nhau trong mỗi bức tranh của ông. Nguyễn Phan Chánh là họa sĩ Việt Nam duy nhất ưa dùng chữ Nho trong tất cả các tác phẩm của mình. Trong tranh của Nguyễn Phan Chánh, hội họa mô tả đề tài của tranh, thi ca là tâm sự của họa sĩ. Đôi khi thơ trên tranh Nguyễn Phan Chánh còn mang một giá trị độc lập, không liên quan nhiều đến nội dung.
Hình hoạ châu Âu không đồng hoá được Nguyễn Phan Chánh…
Khuynh hướng dân tộc, sống hết mình đến cạn kiệt vì dân tộc mình đã tạo nên một Nguyễn Phan Chánh vừa hiện đại vừa thuần khiết Việt: chất phác, bình dị, hồn hậu, yêu đời và yêu thiên nhiên trong những nét sinh hoạt, những tập tục và cảnh trí độc đáo, trong những đối tượng chọn vẽ là phụ nữ và trẻ em.
Nếu như Nguyễn Gia Trí đã vượt qua được những giới hạn của mỹ nghệ và hội họa, chế ngự và làm chủ được thứ sơn mài nghèo nàn mà ương ngạnh, đưa Sơn Ta vượt ra ngoài nơi giam hãm, đóng khung của những chiếc tráp, guốc, những bức họa lồng khung nghiêm trang, lộng lẫy trong cung đình, những vờn bay của đền chùa miếu mạo để tạo nên những tài sản hội họa độc đáo, vô giá, thì Nguyễn Phan Chánh lại làm chủ được cái mềm mại, chân quê mà bền bỉ của lụa. Cả hai đều có một điểm chung, đó là cùng xuất phát từ một phương tiện độc đáo để diễn cái HỒN VIỆT, dựng đứng một thế giới hội họa.
Đó là khi phương Đông gặp nhân loại…
Tuy nhiên, không như các nhà văn hiện thực nước ta hồi đó thường mô tả thôn quê bằng những bức tranh đen tối với những kiếp sống ê chề, mòn mỏi, Nguyễn Phan Chánh đã đặt hồn mình vào trong không gian ấm áp bình dị nơi thôn dã, cùng những đứa trẻ, những cô gái thuần nông, những cảnh sinh hoạt, đình đám. Rồi từ đó, một vẻ đẹp thuần chất không cần triết lý, không ồn ào, lặng lẽ cô đọng trên từng bức vẽ. Ở đó, màu chủ đạo của ông bao giờ cũng từ gam màu nâu rồi chuyển dần sang hồng, tím... màu của làng quê Việt. Ở đó, vẫn là khóm chuối, bờ ao, bùn lầy, nước đọng; cũng vẫn là kẻ chăn trâu, người cày cấy, lam lũ nắng mưa… nhưng dưới cành cọ của Nguyễn Phan Chánh bóng tối bị xua tan đi để cho ánh sáng tràn vào.
Nhà văn Ba Lan Z.Kwecinska nói: Dù có vẽ cái gì cũng là vẽ cái Tôi.
Phải có một sức sống mạnh mẽ hoạ sỹ mới giữ được sự bình thản, êm đềm ở một đất nước luôn có chiến tranh.
Nguyễn Phan Chánh đã trở về cõi thiên thu ngót nghét 30 năm, nhưng tài năng và nhân cách của ông sẽ là tấm gương sáng mãi cho những thế hệ họa sĩ Việt Nam học tập. Nguyễn Phan Chánh đã đặt ý nghĩa của đời mình vào dòng chảy muôn đời của làng quê Việt. Ông sống đời sống của người nông dân nhân hậu, rồi tặng lại cho họ những giá trị thẩm mỹ bền vững nhất. Và như thế, ông đã để lại cho hậu thế một định nghĩa - bất biến - về cái đẹp của sự sống.
“Đó là một con người suốt đời ẩn kín tâm tư…”
Hạnh Nhân