• Đường dây nóng

    0901.22.33.66 - toasoan@toquoc.gov.vn

  • Liên hệ quảng cáo

    091.358.6788

Tránh chồng chéo giữa Luật Lưu trữ với Luật Di sản văn hóa khi quy định về tài liệu lưu trữ đặc biệt

Thời sự 24/05/2024 16:21

(Tổ Quốc) - Ngày 24/5, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 7, Quốc hội họp phiên toàn thể tại hội trường, thảo luận về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi).

Cần thống nhất với Luật Di sản văn hóa

Góp ý vào dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi), đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga - Đoàn ĐBQH tỉnh Hải Dương bày tỏ quan tâm đến những nội dung quy định về tài liệu lưu trữ đặc biệt, bởi có sự giao thoa và cả chồng chéo trong quy định về tài liệu lưu trữ đặc biệt là bảo vật quốc gia như Mộc bản triều Nguyễn đã được UNESCO ghi danh vào danh mục di sản tư liệu thế giới hiện đang được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 1 và 4.

Theo đại biểu, giữa dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi) với Luật Di sản văn hóa hiện hành và cả dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) sẽ trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7 lần này có những điểm còn mâu thuẫn trong quy định về tài liệu lưu trữ đặc biệt là di sản văn hóa.

"Trong dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi) trình Quốc hội lần này, tôi nhận thấy nhiều ý kiến đóng góp của các đại biểu Quốc hội về nội dung này đã được tiếp thu tương đối đầy đủ và hợp lý", đại biểu nói.

Tránh chồng chéo giữa Luật Lưu trữ với Luật Di sản văn hóa khi quy định về tài liệu lưu trữ đặc biệt - Ảnh 1.

Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga - Đoàn ĐBQH tỉnh Hải Dương phát biểu thảo luận.

Tuy nhiên, theo đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga, vẫn còn một số nội dung cần điều chỉnh. Thứ nhất, về khái niệm bản sao. Tại khoản 6 Điều 2, dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi) quy định về bản sao là: "Bản sao tài liệu lưu trữ là bản chụp in số hóa, trích xuất nguyên văn toàn bộ hoặc một phần nội dung thông tin từ tài liệu lưu trữ".

Theo đại biểu, quy định này đúng với tài liệu lưu trữ thông thường nhưng chưa đúng với tài liệu lưu trữ là bản bảo vật quốc gia. Trong Luật Di sản văn hóa hiện hành và trong dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) bản sao là sản phẩm làm giống như bản gốc về hình dáng, kích thước, chất liệu, màu sắc trang trí và những đặc điểm khác.

"Bởi vậy, tôi đề nghị bổ sung thêm khái niệm bản sao đối với tài liệu lưu trữ đặc biệt là di sản văn hóa vào dự thảo cho thống nhất với Luật Di sản văn hóa", đại biểu đề nghị.

Thứ hai, về giá trị của bản sao tài liệu lưu trữ. Trong khoản 2 Điều 23 của dự thảo luật có quy định "bản sao tài liệu lưu trữ có xác thực của cơ quan, tổ chức lưu trữ lịch sử có giá trị như tài liệu lưu trữ gốc đang bảo quản lưu trữ tại lưu trữ hiện hành, lưu trữ lịch sử".

Tránh chồng chéo giữa Luật Lưu trữ với Luật Di sản văn hóa khi quy định về tài liệu lưu trữ đặc biệt - Ảnh 2.

Quốc hội thảo luận về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi)

Đại biểu cho rằng quy định về giá trị bản sao tài liệu lưu trữ như vậy cũng chỉ đúng với tài liệu lưu trữ thông thường mà chưa đúng với tài liệu lưu trữ là di sản văn hóa và còn mâu thuẫn với những quy định của Luật Di sản văn hóa hiện hành cũng như dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi).

Theo quy định của Luật Di sản văn hóa "bản sao là sản phẩm giống như bản gốc về hình dáng, kích thước nhưng không có giá trị như bản gốc".

"Bởi vậy, tôi đề nghị sửa quy định trong khoản 2 Điều 23 của dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi) như sau: "Bản sao tài liệu lưu trữ có xác thực của cơ quan tổ chức lưu trữ lịch sử có giá trị về thông tin, tư liệu như tài liệu lưu trữ gốc đang bảo quản tại lưu trữ hiện hành, lưu trữ lịch sử". Khi xác định giá trị thông tin, tư liệu của bản sao, tài liệu lưu trữ giống như bản gốc là đã loại trừ được sự mâu thuẫn giữa Luật Di sản văn hóa và Luật Lưu trữ", đại biểu bày tỏ.

Nên áp dụng theo một luật

Phát biểu thảo luận, đại biểu Lưu Bá Mạc - Đoàn ĐBQH tỉnh Lạng Sơn cũng bày tỏ băn khoăn đối với những quy định còn chồng chéo giữa Luật Lưu trữ (sửa đổi) và Luật Di sản văn hóa.

Cụ thể, tại khoản 3 Luật Lưu trữ (sửa đối) quy định: "Trường hợp tài liệu lưu trữ được công nhận là bảo vật quốc gia hoặc công nhận, ghi danh hình thức khác theo quy định của Luật Di sản văn hóa và luật khác có liên quan ngoài việc thực hiện theo quy định của luật này còn phải thực hiện theo quy định của Luật Di sản văn hóa và luật khác có liên quan".

Đại biểu đề xuất cân nhắc sửa thành: "Trường hợp tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt được công nhận là bảo vật quốc gia hoặc được xác định là một trong các loại hình di sản văn hóa thì phải thực hiện theo quy định của Luật Di sản văn hóa", nghĩa là áp dụng theo một luật.

Tránh chồng chéo giữa Luật Lưu trữ với Luật Di sản văn hóa khi quy định về tài liệu lưu trữ đặc biệt - Ảnh 3.

Đại biểu Lưu Bá Mạc - Đoàn ĐBQH tỉnh Lạng Sơn.

"Lý do vì ta cần xác định, phân tách rõ ràng trong việc áp dụng quy định pháp luật đối với hai trường hợp khác nhau, khi còn là tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt thì thực hiện biện pháp bảo vệ, phát huy tài liệu lưu trữ lịch sử có giá trị đặc biệt theo quy định tại dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi) là hợp lý.

Tuy nhiên, khi tài liệu lưu trữ đặc biệt được công nhận là bảo vật quốc gia hoặc di sản tư liệu thì cần phải thực hiện biện pháp bảo vệ, phát huy giá trị bảo mật quốc gia và di sản tư liệu theo quy định tại Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) mà dự thảo Luật Di sản văn hóa sắp tới đang thực hiện.

Khi tài liệu lưu trữ đặc biệt đó được công nhận là bảo vật quốc gia, di sản tư liệu, nhưng cùng lúc phải áp dụng 2 quy định khác nhau về biện pháp bảo vệ và phát huy giá trị trong 2 luật khác nhau sẽ có sự chồng chéo, vướng mắc, gây ra cách hiểu khác nhau khi áp dụng luật trong thực hiện sau này", đại biểu nêu vấn đề.

Đại biểu nêu ví dụ, tại điểm a khoản 5 Điều 52, dự thảo Luật Lưu trữ có quy định "chủ sở hữu tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt phải thông báo bằng văn bản đến Bộ Nội vụ khi trao đổi, tặng, cho, mua, bán, để lại di sản thừa kế là tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt".

Trong khi đó tại điểm c khoản 1 Điều 41 dự thảo Luật Di sản văn hóa có quy định "bảo vật quốc gia thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng chỉ được chuyển nhượng trong nước, đồng thời không được kinh doanh, khi chuyển quyền sở hữu bảo vật quốc gia, tổ chức, cá nhân sở hữu bảo mật quốc gia phải thông báo bằng văn bản tới Sở VHTTDL nơi đã đăng ký về chủ sở hữu mới" và tại khoản 1 Điều 58 dự thảo Luật Di sản văn hóa cũng có quy định "di sản tư liệu thuộc sở hữu toàn dân phải được quản lý trong cơ quan, đơn vị có chức năng, nhiệm vụ thích hợp, không được mua, bán, tặng, cho, còn di sản tư liệu thuộc các hình thức sở hữu khác được mua bán, trao đổi, tặng, cho để thừa kế ở trong nước theo quy định của pháp luật".

"Vậy nếu tài liệu lưu trữ đặc biệt được công nhận là bảo mật quốc gia hoặc di sản tư liệu nếu bị điều chỉnh theo cả 2 luật như trên thì vừa phức tạp trong thực tiễn lại có nhiều cách hiểu khác nhau. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc có những điều chỉnh phù hợp để áp dụng trong thực tiễn thuận tiện", đại biểu Lưu Bá Mạc đề nghị.

Đảm bảo đầy đủ, toàn diện nhất nội dung liên quan đến tài liệu lưu trữ đặc biệt

Cũng tham gia thảo luận, đại biểu Nguyễn Tuấn Thịnh - Đoàn ĐBQH TP Hà Nội góp ý vào Điều 3 về áp dụng Luật Lưu trữ và pháp luật có liên quan. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 3 quy định: "Trường hợp mang tài liệu lưu trữ được công nhận là bảo vật quốc gia ra nước ngoài phải có quyết định của Thủ tướng Chính phủ".

Tránh chồng chéo giữa Luật Lưu trữ với Luật Di sản văn hóa khi quy định về tài liệu lưu trữ đặc biệt - Ảnh 4.

Đại biểu Nguyễn Tuấn Thịnh - Đoàn ĐBQH TP Hà Nội

Đại biểu cho rằng quy định này là không cần thiết, bởi vì ngay tại khoản 2 điều này đã quy định: "Trường hợp tài liệu lưu trữ được công nhận là bảo vật quốc gia theo quy định của Luật Di sản văn hóa và luật khác có liên quan thì ngoài việc thực hiện theo quy định của luật này phải thực hiện theo quy định của Luật Di sản văn hóa và luật khác có liên quan" và theo quy định của Luật Di sản văn hóa tại Điều 44 có quy định "việc đưa bảo vật quốc gia ra nước ngoài phải có quyết định của Thủ tướng Chính phủ cho phép".

"Với quy định như vậy, đối với một tài liệu lưu trữ được công nhận là bảo vật quốc gia khi đem ra nước ngoài sẽ có 2 quyết định của Thủ tướng Chính phủ cho phép đem ra với tư cách là tài liệu lưu trữ và một quyết định cho phép đem ra là bảo vật quốc gia theo Luật Di sản văn hóa", đại biểu nêu vấn đề.

Tránh chồng chéo giữa Luật Lưu trữ với Luật Di sản văn hóa khi quy định về tài liệu lưu trữ đặc biệt - Ảnh 5.

Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà.

Tại phiên thảo luận, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà, đại diện cơ quan soạn thảo đã giải trình, làm rõ vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm. Theo đó, với nội dung tài liệu lưu trữ đặc biệt về các nội dung liên quan đến khái niệm của bản sao; tiếp tục rà soát để tránh mâu thuẫn trong tài liệu lưu trữ đặc biệt với tài liệu là di sản văn hóa; trình tự, thủ tục để công nhận tài liệu lưu trữ đặc biệt và trường hợp thuộc tài liệu lưu trữ đặc biệt nhưng được công nhận là di sản văn hóa và bảo vật quốc gia, v.v..

Bộ trưởng cho biết tất cả những nội dung này sẽ được cơ quan soạn thảo tiếp thu, tổng hợp, giải trình và cũng sẽ đề nghị với Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét để hoàn thiện thêm.

"Làm sao cho đầy đủ, toàn diện nhất nội dung liên quan đến tài liệu lưu trữ đặc biệt", Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà cho biết.

Xuân Trường - Thế Công

NỔI BẬT TRANG CHỦ