Nhân Lễ Kỷ niệm 90 năm sinh nhà văn Nguyên Hồng- Một phong cách giàu cảm xúc; một tình thương vừa mênh mông vừa thấm thía đối với nhiều lớp người lao khổ; một bức tranh đời trước Cách mạng tháng Tám với bao nỗi xót xa, cay đắng của con người.
Nhân Lễ Kỷ niệm 90 năm sinh nhà văn Nguyên Hồng- Một phong cách giàu cảm xúc; một tình thương vừa mênh mông vừa thấm thía đối với nhiều lớp người lao khổ; một bức tranh đời trước Cách mạng tháng Tám với bao nỗi xót xa, cay đắng của con người.
Lần đầu tiên đọc Nguyên Hồng tôi cứ ngẩn ngơ hoài trước một tuổi thơ sao mà cơ cực đến thế, và sao mà nhà văn lại có thể thành thực đến thế! Một sự thành thực đến tận từng chi tiết, khiến đọc đến mà sững sờ, mà nổi gai lên trong trí, mà run rẩy đến từng cảm xúc. Chẳng hạn cái chi tiết ông bố lần tìm và tước đoạt cọc tiền xu giấu sâu trong dải rút của đứa con, nhờ đánh đáo mà tích góp được, để đi mua thuốc phiện... Mãi về sau này tôi mới chú ý đến câu văn nổi tiếng của Thạch Lam khi giới thiệu cuốn sách này - ấy là “sự rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại”.
Cũng mãi sau này tôi mới biết Nguyên Hồng từng phải đi tù rất sớm khi còn là trẻ con; và mới vào tuổi thành niên đã phải mấy lần vào tù. Hiểu vì sao Nguyên Hồng đã từng viết một lúc cả tù phụ nữ và tù trẻ con.
Nhưng với Nguyên Hồng, cũng khó mà nói cảnh trong tù và cảnh ngoài tù, cảnh nào cay đắng hơn!
Khác với tất cả những người viết cùng thời, Nguyên Hồng là người sống trọn vẹn trong cảnh lầm than, sống với thế giới của tất cả những người lầm than. Tôi nói thế giới, bởi lòng tin ông quen biết không phải chỉ một vài lớp người mà là hàng chục, hàng nhiều chục lớp người nghèo họp thành bộ mặt dưới đáy đời sống thành thị. Bởi, nơi cái Xóm Cấm hoặc cái Vườn-hoa-đưa-người của Hải Phòng mà ông quen thuộc, nào có thiếu bất cứ nghề gì, để được coi là nghề, cho sự sống dưới đáy ấy, để có cái đưa vào miệng, để duy trì cho được một sự sống tối thiểu mà nguy cơ của cái đói, của cả sự chết đói cứ triền miên rình rập quanh họ.
Gọi Nguyên Hồng là nhà văn của người cùng khổ tưởng không ai trong số các nhà văn hiện đại của ta thích hợp hơn, xứng đáng hơn. Bởi số phận của họ còn được nhà văn theo đuổi suốt cả một đời, kể từ cuốn sách đầu tay Bỉ vỏ đến bộ tiểu thuyết đồ sộ cuối đời là Cửa biển, 4 tập, trên 2000 trang. Bộ sách là tổng hợp toàn bộ kinh nghiệm sống của ông, là sự trải rộng và đúc kết mọi mặt vốn sống của ông về Hải Phòng lầm than và hướng tới cách mạng, trong đó không có nhân vật nào ông không gửi gắm một niềm yêu ghét được đẩy đến độ tận cùng.
Nói đến một sự hóa thân triệt để của nhà văn vào thế giới nhân vật, tôi nghĩ không ai hơn được Nguyên Hồng. Sống với những khổ đau của nhân vật đến có thể luôn luôn, lúc nào cũng có thể rưng rưng mà khóc vì họ, băn khoăn đến hốt hoảng vì họ, không ăn ngủ được vì họ, như một người mẹ mang thai, có lẽ chỉ riêng Nguyên Hồng mới có...
*
Trong hình dung của tôi, Nguyên Hồng là người mà nỗi đam mê sáng tác là triệt để đến một trăm phần trăm, là không có đam mê nào khác chen vào được. Chỉ có viết và viết. Viết từ trẻ cho đến già. Viết cả trong nhà tù và viết trong cái đói thường trực. Tựa như dốc cạn cuộc đời ra mà viết. Tựa như vắt kiệt mình ra mà viết. Viết với tất cả tín niệm thiêng liêng, cao cả của nghề. Không viết không sống nổi. Không viết không có gì minh chứng cho sự hiện diện, sự tồn tại của bản thân mình. Chỉ ngừng viết khi bất ngờ ngã xuống trên vườn nhà, rồi ra đi vĩnh viễn, từ tuổi 64. Có một lúc dường như ông có thưa viết, ấy là buổi đầu kháng chiến chống Pháp, khi nhà văn từ Hải Phòng chuyển về Bắc Giang... Nhưng rồi từ Sóng gầm, khi chuyển được vào mạch viết quen thuộc thì quả khó có gì ngăn nổi nhà văn rời quản bút, rời tập giấy, rời chiếc chõng tre và rời cái cặp da căng phồng bản thảo luôn luôn ở bên mình, trong tất cả các chuyến đi trên chiếc xe đạp mini Liên Xô nhỏ con từ Tân Yên về Hà Nội và ngược lại. Một hình ảnh trung thực và sống động về Nguyên Hồng là hình ảnh nhà văn cùng chiếc cặp da to phồng trên chiếc xe mini Liên Xô cũ kỹ; về sau còn có thêm bộ râu đen xum xuê một cách bất thường dưới cằm, ở tuổi ngoài 50, trên khuôn mặt đăm đăm mà phúc hậu dường như lúc nào cũng sẵn sàng để rưng rưng nước mắt.
Cũng cần nói thêm, ở tuổi ngoài 50, Nguyên Hồng đã xin nghỉ hưu, sau khi cả nhà, vợ chồng con cái cùng dắt díu nhau kéo từ Hà Nội trở lại ấp Cầu Đen, Tân Yên. Ông chán cảnh căng thẳng phiền tạp nơi thành phố? Hoặc ông cần tập trung tâm sức, thời gian cho việc hoàn thành bộ Cửa biển, cuốn sách về Hải Phòng, quê hương thứ nhất của ông, về món nợ cho cả một đời văn của ông. Để rồi, sau khi xong Cửa biển lại đến với ông món nợ thứ hai là Bắc Giang. Ông lại bắt tay ngay vào bộ sách mới Núi rừng Yên Thế mà tập I có tên Thù nhà nợ nước đã sớm được Hội văn nghệ Hà Bắc cho in trên một thứ giấy quen thuộc lúc đó, vừa đen thui, vừa bở, khiến cho chỉ cần ngấm vào ít giọt nước là cả trang sách cứ tự nhiên mà tơi mủn ra.
*
Đọc Nguyên Hồng tôi lại có dịp chiêm nghiệm một điều tưởng là mới mà hóa ra không khó hiểu. Đó là, dẫu trong khổ ải, trong cay cực, trong bất hạnh mà con người vẫn không để tắt, thậm chí còn có khả năng thắp sáng những gì thánh thiện ở trong mình. Toàn bộ thế giới nhân vật Nguyên Hồng đều phải chịu cảnh sống dưới đáy, nhưng ở họ, không ai không mang một mầm giống nhân bản để tuông ra, để ngoi lên. Con người đòi được sống với bản chất người, với tính cách người, thậm chí khi bị dồn vào chân tường, khi bị tha hóa, bị vật hóa đến cùng độ, họ vẫn cứ là người, vẫn đầy khả năng nhân hóa - đó chính là kết luận lạc quan tôi luôn luôn được thấy trên từng sáng tác của cả một đời văn ngót 50 năm của ông.
Ở nhận xét này tôi thấy Nguyên Hồng cũng gần gũi với Macxim Gorki - người có chính tên là Cay đắng.
Đời Nguyên Hồng là một đời vất vả; như để bù lại, cái chết lại đến với ông một cách nhẹ nhàng. Ông nằm xuống, trong sự thay đổi động tác, như là để nghỉ ngơi, và như là để ngủ. Ông chưa có chuẩn bị gì cho một cuộc ra đi vĩnh viễn.
Nhớ về Nguyên Hồng tôi nghĩ đến một người lao động văn chương trong nghĩa khổ hạnh và thiêng liêng nhất.
*
Nói Nguyên Hồng là nói đến nhà văn của lớp dân nghèo thành thị. Không đi sâu vào các quá trình có tính quy luật diễn ra sau “lũy tre xanh” như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao... Nguyên Hồng chỉ đón lấy cái chặng đường người dân quê phiêu dạt ra tỉnh. Ông chờ họ ở một bến xe, một ngã ba sông... Ông quan sát với biết bao hồi hộp, lo lắng trước vẻ ngơ ngác, sợ sệt của họ nơi một vườn hoa có tên “đưa người”, một ngách phố, rồi mất hút trong quầng sáng điện, hoặc biến đi sau một ngõ hẻm... Để rồi, chính từ giờ phút đó, đời sống thành thị sẽ cuốn họ vào guồng quay của nó, hoặc tàn nhẫn bóp chết, hoặc làm biến dạng hình hài và số phận họ. Để rồi, trên sự chen lấn, tranh giành, tước đoạt đầy nhốn nháo và hỗn loạn này mà làm xuất hiện những “bỉ vỏ” như Tám Bính, những anh chị như Năm Sài Gòn, Ba Bay, những gái điếm, ăn xin đủ dạng, tóm lại, cả một thế giới người bị tước đi quyền sống, nên đến lượt mình lại phải dùng sự tước đoạt để giành lại phần sống lay lắt cho mình.
Tất cả sáng tác của Nguyên Hồng là nhằm vào câu trả lời: Họ đã sống ra sao? Sự sống ấy, nếu cũng được gọi là sự sống, quả đã ngồn ngộn trên các trang viết của ông. Sống trong sự cùng cực, bị vắt kiệt. Sống trong sự lo âu, khắc khoải, được hôm nay không biết ngày mai. Sống trong cái đói thường trực. Và sống trong sự dằn vặt, day dứt, hành hạ, làm khổ lẫn nhau... Nhưng cũng là sống trong sự nương tựa, cưu mang, đùm bọc, hy sinh cho nhau. Có thể nói chung quanh cái chuyện sống hết sức sinh tử đó, hoặc có thể nói hẹp hơn, chung quanh việc vật lộn cho có miếng ăn hàng ngày đó, Nguyên Hồng đã có thể khai triển mà cho thấy biết bao là phong phú, là chồng chất và dồn nén cả một thế giới vừa đầy mâu thuẫn, ngang trái vừa giàu vẻ đẹp và chất thơ trong các cảnh đời và tình người!
*
Đọc Nguyên Hồng không thể không dừng lại trên bộ tiểu thuyết lớn Cửa biển mà nhà văn dường như đã dốc vào đấy gần như toàn bộ vốn liếng, tâm huyết của cả một đời cầm bút của mình. Ba mươi lăm năm nung nấu cho những gì đã được trang trải và dồn nén ở đây, nơi bộ sách có lẽ là vào loại dài nhất trong văn học hiện đại Việt Nam, tính cho đến khi Nguyên Hồng qua đời. Không phải không có sự khó nhọc cho chúng ta mỗi khi phải đọc liền một thôi hàng mấy trăm trang, khi phải đi suốt một mạch cuộc hành trình dài qua bốn tập Cửa biển. Nhưng rõ ràng nếu thiếu đi bộ sách đó thì sự hình dung về xã hội cũ ở chúng ta hôm nay, và nhiều thế hệ mai sau sẽ thiếu hụt đi không nhỏ. Trước hết, đó là một mảng tối, toát lên từ bao cảnh đời cơ cực, bao kiếp sống lầm than, bao số phận bị giày đạp... Nhưng là một mảng tối không đứng im mà đang chuyển động. Nếu Sóng gầm (1961), Cơn bão đã đến (1968), Thời kỳ đen tối (1973), như tên truyện gợi ra là những diễn biến, phát triển và dồn nén của một cuộc sống đang chuyển dần vào đêm sâu, thì với Khi đứa con ra đời (1976) tác giả lại rọi ánh sáng vào cái hiện thực vĩ đại và thiêng liêng của dân tộc là cách mạng, nó là sự giải tỏa, là xu thế tất yếu của cuộc sống, từ đau thương đi tới quật khởi, được thu nhỏ trong hình ảnh một vùng Cửa biển: Hải Phòng.
Cái mới của bộ Cửa biển chính là ở những cố gắng của nhà văn nhằm khẳng định sự phát triển cách mạng của hiện thực. Cũng chính ở đây thể hiện sự đổi mới trong phương pháp nghệ thuật ở Nguyên Hồng, dẫu bên cạnh đó, về bút pháp tiểu thuyết, bộ truyện vẫn còn lắm trang nặng nề, rậm rạp.
*
Một phong cách giàu cảm xúc; một tình thương vừa mênh mông vừa thấm thía đối với nhiều lớp người lao khổ; một bức tranh đời trước Cách mạng tháng Tám với bao nỗi xót xa, cay đắng của con người; những tính cách nhân vật như muốn cưỡng lại các số phận; một khát vọng hướng về cái thiện, và do vậy mà hướng về cách mạng như một lẽ phải tự nhiên... Có thể xem tất cả đó là những dấu ấn đặc sắc mà Nguyên Hồng đã để lại cho văn học Việt Nam thế kỷ XX sau ngót năm mươi năm sáng tác của nhà văn./.
Tháng 12-2008
(hnv.vn)