(Tổ Quốc) - Trong 2 ngày 28-29/9, tại Trung tâm Hội nghị quốc gia (Hà Nội), Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) tổ chức Hội thảo về công tác biên soạn, xuất bản, sử dụng sách giáo khoa giáo dục phổ thông và Trưng bày sách giáo khoa Việt Nam và các nước.
Sự kiện có sự tham dự của lãnh đạo Chính phủ; Ban Tuyên giáo Trung ương; Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội; Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực; lãnh đạo Bộ GDĐT, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài chính; đại diện lãnh đạo một số trường đại học sư phạm; đại diện 63 Sở GDĐT và các đơn vị có chức năng, tham gia xuất bản sách giáo khoa.
Hội thảo và Trưng bày sách giáo khoa giáo dục phổ thông được tổ chức nhằm đánh giá những kết quả biên soạn, thẩm định, xuất bản, phát hành sách giáo khoa; so sánh và đánh giá cụ thể sự khác biệt giữa việc biên soạn, thẩm định, xuất bản và phát hành sách giáo khoa trước đây với việc thực hiện theo chủ trương xã hội hóa hiện nay. Từ đó, đề xuất định hướng,giải pháp trong những năm tiếp theo.
Hoạt động trưng bày bao gồm: Trưng bày, giới thiệu lịch sử phát triển sách giáo khoa giáo dục phổ thông Việt Nam qua các thời kỳ, theo các mốc thay sách: 1957, 1981, 2002, 2020; trưng bày và giới thiệu sách giáo khoa của một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới, như: Lào, Thái Lan, Malaysia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Pháp, Nga, Anh... Ngoài ra, một số sách được giải thưởng quốc gia và sách giáo khoa điện tử thuộc các bộ sách hiện hành cũng sẽ được trưng bày, giới thiệu.
Ngoài việc giới thiệu cho người xem những bộ sách giáo khoa của Việt Nam và thế giới, hoạt động trưng bày còn cung cấp các thông tin so sánh về quy cách của sách giáo khoa Việt Nam và sách giáo khoa của các nước theo một số tiêu chí cụ thể; cùng với đó là giới thiệu các hoạt động thực hành với sách giáo khoa được một số nước trên thế giới thực hiện.
Trong ngày 29/9 đã diễn ra Hội thảo về sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Hội thảo nhằm đánh giá những kết quả biên soạn, thẩm định, xuất bản, lựa chọn, sử dụng sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Từ đó, đưa ra các đề xuất, những định hướng, giải pháp nâng cao chất lượng biên soạn, xuất bản, sử dụng sách giáo khoa giáo dục phổ thông, có sự tham gia của đông đảo các tổ chức xuất bản, các nhà khoa học, chuyên gia giáo dục, nhà giáo, nhà quản lý giáo dục trên cả nước.
Hội thảo tập trung thảo luận các nội dung như: Kết quả thực hiện xã hội hóa sách giáo khoa triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018; việc biên soạn, biên tập, in ấn, phát hành sách giáo khoa đáp ứng yêu cầu của các cuộc cải cách và đổi mới giáo dục; tổ chức biên soạn sách giáo khoa và giá sách giáo khoa theo chủ trương xã hội hóa; việc tổ chức lựa chọn, cung ứng và tập huấn sử dụng sách giáo khoa giáo dục phổ thông; yêu cầu đối với nhà xuất bản trong công tác xuất bản sách giáo khoa; thực tế sử dụng giáo dục phổ thông ở các địa phương…
Báo cáo tại Hội thảo, đại diện Vụ Giáo dục Trung học (Bộ GDĐT) cho biết, chủ trương xã hội hóa SGK đã huy động được nhiều tổ chức tham gia biên soạn SGK, đông đảo đội ngũ nhà giáo, nhà khoa học, chuyên gia giáo dục tham gia vào quá trình biên soạn SGK.
Cụ thể, có 6 NXB tham gia biên soạn, phát hành SGK môn học/hoạt động giáo dục các khối lớp: NXB Giáo dục Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm, NXB Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Đại học Vinh, NXB Đại học Huế; 03 tổ chức biên soạn SGK, bao gồm Công ty Cổ phần Phát triển Giáo dục Việt Nam VPBOX; Công ty Cổ phần Đầu tư Xuất bản Thiết bị Giáo dục Việt Nam VEPIC; Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Xuất bản Giáo dục Việt Nam VICTORIA.
Việc biên soạn SGK thu hút đông đảo đội ngũ các nhà giáo, nhà khoa học có uy tín, có kinh nghiệm thực tế và năng lực biên soạn SGK đến từ các trường đại học sư phạm, các trường đại học chuyên ngành, các viện nghiên cứu và cơ sở GDPT tham gia. Trong đó có nhiều tác giả là Tổng chủ biên, Chủ biên và thành viên biên soạn chương trình GDPT 2018; tham gia biên soạn, bồi dưỡng các môđun triển khai thực hiện chương trình GDPT 2018.
Tổng số có 1.574 tác giả tham gia biên soạn SGK cho 6 khối lớp: Lớp 1: 221 tác giả; Lớp 2: 199 tác giả; Lớp 3: 234 tác giả; Lớp 6: 276 tác giả; Lớp 7: 318 tác giả; Lớp 10: 382 tác giả. Các tác giả đều đã được tập huấn về biên soạn SGK và đạt tiêu chuẩn cá nhân viết SGK theo quy định tại Thông tư số 33. Trên 2/3 số tác giả tham gia biên soạn SGK có trình độ từ Tiến sĩ trở lên.
Quy trình biên soạn SGK được quy định cụ thể tại các Thông tư hướng dẫn. Các tổ chức, cá nhân tham gia biên soạn SGK cần đảm bảo về hồ sơ biên soạn SGK từ việc xây dựng đề cương tổng thể, đề cương chi tiết, kế hoạch biên soạn; phân công nhiệm vụ của Tổng chủ biên, Chủ biên, tác giả bảo đảm sự phù hợp về khối lượng công việc và thời gian thực hiện để bảo đảm chất lượng và tiến độ hoàn thành bản mẫu SGK.
Việc biên soạn ít nhất 01 bài học minh hoạ, tổ chức dạy thực nghiệm, góp ý sau khi dạy thực nghiệm để hoàn thiện bài học đó với sự tham gia đóng góp và thống nhất của tập thể tác giả trước khi tổ chức biên soạn các bài học khác nhằm đảm bảo sự đồng nhất giữa các bài học trong cùng một bản mẫu SGK.
Quá trình thực nghiệm bản mẫu SGK được chú trọng, đã đảm bảo số tiết dạy theo quy định, tổ chức lấy ý kiến nhận xét, góp ý của giáo viên sau dạy thực nghiệm để điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện bài dạy thực nghiệm; tổ chức biên soạn, biên tập, chế bản hoàn thành bản mẫu SGK; góp ý nội bộ; lấy ý kiến góp ý của nhà khoa học, giáo viên,… để hoàn thiện bản mẫu SGK trước khi trình Hội đồng Quốc gia thẩm định SGK.
Hằng năm, Bộ GDĐT có văn bản chỉ đạo các Sở GDĐT hỗ trợ các tổ chức, cá nhân có bản mẫu SGK đề nghị thẩm định trong việc tổ chức thực nghiệm, góp ý bản mẫu SGK trước, trong và sau thẩm định.
Đánh giá về chất lượng bản mẫu SGK, bên cạnh các ưu điểm thì các bản mẫu SGK vẫn tồn tại còn một số nội dung, thuật ngữ được sử dụng trong các bản mẫu SGK chưa đảm bảo tính liên thông giữa các môn học/hoạt động giáo dục. Tiến trình nội dung bài học của các bản mẫu SGK trong một môn học còn có sự chênh lệch đáng kể giữa các SGK khác nhau. Chất lượng một số bản mẫu SGK còn hạn chế, bên cạnh những lỗi về nội dung còn rất nhiều lỗi về mặt chính tả, câu từ, ngôn ngữ, hình ảnh…
Bên cạnh đó, việc thẩm định, phê duyệt SGK còn tồn tại, hạn chế như việc xem xét, thẩm định đối với một vài văn bản, ngữ liệu đưa vào SGK chưa chú ý đầy đủ các khía cạnh tác động xã hội; gây băn khoăn trong dư luận khi SGK đưa vào sử dụng. Việc thẩm định SGK còn cần phải thực hiện qua nhiều vòng, nhiều đợt dẫn đến việc phê duyệt danh mục SGK còn chậm gây khó khăn trong việc tổ chức lựa chọn SGK.
Đồng thời, quá trình lựa chọn, cung ứng SGK ở địa phương qua thực tiễn thanh tra, kiểm tra cho thấy, còn tồn tại những hạn chế như, thời gian ban hành quyết định danh mục SGK được lựa chọn chậm, muộn so với quy định tại Thông tư. Việc thông báo nhu cầu số lượng SGK theo các môn học của các địa phương chậm muộn, dẫn đến bị động cho các NXB trong việc cung ứng SGK trước thềm năm học mới.