• Đường dây nóng

    0901.22.33.66 - toasoan@toquoc.gov.vn

  • Liên hệ quảng cáo

    091.358.6788

Xóm nhỏ

06/03/2013 11:09

(Toquoc)- Đó là xóm ven đê ngăn mặn nằm về mạn Tây trên bờ sông Ông Đốc - Con sông uốn khúc, chảy nhẹ giữa đôi bờ lá dừa nước, giữa hai vực sâu thẳm trông sông hiền, buồn, hoang dã.



(Toquoc)- Đó là xóm ven đê ngăn mặn nằm về mạn Tây trên bờ sông Ông Đốc - Con sông uốn khúc, chảy nhẹ giữa đôi bờ lá dừa nước, giữa hai vực sâu thẳm trông sông hiền, buồn, hoang dã. Thêm một con kinh ven đê dài tăm tắp cặp kề sông lớn. Kinh cạn sệt mọc đầy lá mái dầm xanh rập rờn. Xóm nằm phía trong đê, qua nhiều cánh đồng lớn, tiếp giáp với rừng U Minh Hạ, gồm vài chục hộ dân - xóm mới - với vài chục ngôi nhà lá bị chia cắt manh mún bởi con rạch nhỏ xổ nước màu đỏ lợ từ khu rừng U Minh Hạ đổ ra sông lớn, bởi những con lung trời sinh cong queo, những bàu cá, trảng trống đầy ắp cỏ năn, bồn bồn và chim chóc...

Khi cuộc chiến kết thúc, năm bảy lăm, xóm hiện ra một nền bót giặc trơ trụi với hàng rào dây kẽm gai bao bọc, xon xen những thân dừa đen trũi bị đốt nham nhở. Lửa ngấm hằng tháng, những cọc dừa luôn nhả ra những cuộn khói màu xám xịt, bảng lảng. Người ta đếm trong xóm dài sem sém hai cây số có trên trăm hố bom. Có những hố rộng rinh, sâu hoắm, biến thành hồ ao chứa nước ngọt đầy dẫy bông lục bình tím phơn phớt, thoáng buồn. Vài chục ngôi nhà lần lượt bị cháy trụi do nhiều tốp máy bay phản lực F105 của giặc Mỹ ném bom, bắn phá.

Nhà Hai Ngon chủ một đàn trâu hai mươi con nằm trên đìa giằng xây giữa đồng khơi nên còn nguyên vẹn. Nhà Thịnh tai trâu, nhà tôi chặng giữa xóm, kể cả nhà cô Út Phúc con ông Chín Còn gần đập ngăn mặn bị bom phá sập, bị cháy đến năm lần bảy lượt. Duy có cây lụa già chết khô sau nhà tôi vẫn đứng trơ gan mặc dù trên mình đầy thương tích do những mảnh bom và đạn đại liên phạt trúng.

Cây lụa có trước khi hình thành xóm, thường bừng lên những chòm lá non phe phẩy màu trắng xám. Và có một dạo chính cây lụa già khô thu hút đám trẻ chúng tôi. Trong đó có tôi, Thịnh tai trâu và con bé Phúc.

Rồi sau đó không lâu, vào một đêm giông mưa lớn, cây lụa già sau nhà tôi bị gãy đổ đột ngột. Không ai dám tới nhặt thân cây khô mang về nhà, dù một cành nhỏ khẳng khiu vì sợ tà ma quấy rầy. Còn đám trẻ xóm ven đê chúng tôi bắt đầu thưa vắng và tan biến lúc nào không ai còn nhớ.

Chiến tranh. Bắt đầu từ những đợt đồn bót của giặc co cụm lại, chỉ còn ba cứ điểm chính trên tuyến sông Ông Đốc quê tôi. Chi khu Rạch Ráng nằm giữa đoạn sông, đêm đêm phân phát những quả đạn đại bác lên đầu trên xóm dưới. Máy bay trực thăng soi thâu đêm, tiếng cánh quạt cành cạch, âm u, làm át tiếng tru tréo ăng ẳng của con chó Vện nhà ông Chín Còn. Con Vện cao lớn với bộ lông vàng sậm thường hay lùng sục suốt và kêu la inh ỏi trong lúc trực thăng nhấp nháy đèn đỏ trên không.

Xóm nhỏ ven đê chìm trong bóng tối.



Tôi và Thịnh rủ nhau đi hàn sông đắp cản, đi thu lúa đảm phụ, đi canh gác đêm đêm... Cơn lốc cách mạng cuốn hút lớp trẻ xóm ven đê chúng tôi.

Thịnh rất khỏe, vạm vỡ, lưng cõng bao lúa chỉ xanh là việc bình thường. Thằng bạn thân của tôi làm việc gì đáng việc ấy: Cắm câu trê là phải có nửa giỏ cá trê. Đi phát rồi công lúc mặt trời chưa đứng bóng. Cơm lấp đầu gối cào bốn công cỏ lùn một ngày, không thèm vào nhà. Đánh lộn phải có chuyện sứt đầu mẻ trán mới chịu. Thịnh vố Hai Ngon một trận trên đìa giằng xây với lý do vì Ngon cày lỏi, thả trâu quật mộ nội. Tôi can Thịnh. Thịnh xua tôi ra. Gương mặt chữ điền của thằng bạn càng sắc cạnh, to ra khác thường. “Mầy nhát chỉ việc canh đường, giữ cửa. Để một mình tao trị nó. Mầy khỏi”. Thịnh miệng nói tay tới. Nhưng rất lạ, không ai ngờ rằng sau một lúc bồng bột, nóng nảy, Thịnh trở lại đăm chiêu, mơ mộng. Thịnh mê Văn công trên tỉnh về đây biểu diễn. Dần dà Thịnh tự học đàn. Tiếng đàn lụp cà lụp cụp, ngắc ngứ, chỉ một việc đưa đón tiếng ca ngân nga, ấm lạ của Thịnh.

“Thảo, mầy nghe đây, tao ca...”. Đang đêm, Thịnh bật dậy kêu với qua nhà tôi buộc tôi phải lên tiếng: “Nghe. Ca đi Thịnh. Tao nghe đây mà”. Thịnh trỗi giọng. Vẫn những câu ca quen thuộc do cô Ba Rỉ ca được thu vào đĩa ASIA thuở xa Thịnh thường ca: “... Khoác áo nâu sòng... Mượn cửa thiền môn khép chặt cửa lòng của đời bạc phận hồng nhan...”. Thịnh ngưng chốc lát để kêu với qua nhà tôi lần nữa. Nhà tôi cách nhà Thịnh một con mương nhỏ um tùm lá dừa nước nên nghe tiếng Thịnh giật giọng. Tôi đáp: “Đang nghe. Mắc ca thì ca nữa đi Thịnh. Đang nghe”. Thịnh nói: “Nghe thì ca nữa. Ca y như Văn công tỉnh đây nghe”. Lần nầy, Thịnh ca miết: “Nào ngờ gặp cảnh phũ phàng. Ôi, nát một đời hoa...”. Càng về khuya, giọng ca của Thịnh càng ngân dài, ấm và rõ mồn một. Tôi đoán chắc chắn chỗ tôi chỉ là cái trạm để chuyển giọng ca ấy đến nhà ông Chín Còn và cô Út Phúc. Út Phúc lớn nhanh. Con gái nhà nghèo đêm đêm phải chèo chống cùng ông Chín Còn đi đặt cua ngoài sông lớn. Về tới nhà, buộc xuồng xong đâu vào đấy, Phúc nhảy lên giường ngủ khò. Phúc khỏe, tròn lụi như hột mít. Được mái tóc phủ dài xuống tới thắt lưng, gương mặt trắng, sáng. Cộng với Phúc được tính được nết, lại giỏi giang khiến Thịnh đeo đẳng mấy năm liền. Và, Thịnh sắp có con với Út Phúc.

Một dạo, xóm ồn ã tiếng ong tiếng ve đứng hẳn về phía Út Phúc và Thịnh: “Gái có chửa hoang chọn đàng Đông phải rẽ đàng Tây. Tội cho con gái Chín Còn. Tội cho thằng Thịnh nghèo rớt mồng tơi gặp cảnh không may...”. Ngược lại, gần nửa người già láng giềng nghiêng về phía vợ chồng ông Chín, thông cảm hoàn cảnh ông Chín đang nợ lúa thuê trâu cày ruộng, khối lúa vay của Hai Ngon nên ép uổng con gái chọn Hai Ngon làm chồng.

Tôi hiểu tâm trạng của Thịnh lúc bấy giờ hơn ai hết. Thất vọng, thất tình tuôn chảy theo tiếng ca đêm đêm. Thịnh thường ca vu vơ để bày tỏ tâm sự nghiệt ngã của mình hơn bất cứ lúc nào. Một hôm Thịnh kéo tôi lên tới đìa giằng xây hái trái môn nước chín. Chưa kịp hái trái môn nước chín để ăn, Thịnh hỏi: “ Mầy giúp tao được gì? Tao khổ quá!”. Tôi gạn ý Thịnh: “Giúp bằng cách nào, Thịnh? Tao sẵn sàng”. Thịnh tư lự, hai vành tai to ửng đỏ: “Đâu, mầy tìm cách giúp tao. Tao đi tới không được, còn bước lui đó hả, khổ cho Phúc, mầy à. Đứa trẻ...”

Tôi lúng túng với hai việc mình phải làm trong khi chưa nói thật với Thịnh. Một là tự thú với một ai đó ở cái Trạm y tế trong Kinh Cùn về việc dĩ lỡ của Út Phúc. Hai là làm theo sự chỉ dẫn của vài bà chị thân tình có số bất hạnh trong xóm: Phá thai! Hai cách ấy đều liều lĩnh và nguy hiểm cả.

Thịnh hoang mang, bí đường.

Tôi đi rảo hết vườn ông Chín Còn, vườn Hai Ngon, vườn Thịnh để tìm những trái đu đủ non mang đến cho Phúc. Chưa tới tay Út Phúc, tôi nhón một trái non đưa vào miệng cắn thử. Tôi đưa mớ trái non cho Thịnh. Thịnh cắn lụp bụp một hơi mấy trái liền. Nước mắt nước mũi nhòe nhoẹt trên môi trên má Thịnh.

Thịnh cự tuyệt. Cuối cùng, Thịnh chỉ nhờ tôi trao thư cho Phúc. Lại phải trao thư cho Phúc lúc nầy. Tôi nghĩ và bắt đầu hoang mang hơn Thịnh.

Nhà ông Chín Còn cặp kề bên đập ngăn mặn, đôi lúc xuồng qua lại bị ách tắc. Đông người. Còn nhà ông Chín theo chỗ tôi biết, rất ít khách tới lui. Là vì lâu nay ông Chín khó nổi tiếng lục tỉnh, làm lụng đầu tắt mặt tối, lại không rượu, không trà. Việc đi đám tiệc, các buổi xã giao hiếu hỉ, và bất cứ việc gì đều dành cho bà Chín. Đêm đêm bà Chín thường thức giấc đi lững thững trên bờ rạch ném vài chiếc lá mái dầm xuống nước xem nước lớn nước ròng để đánh thức ông Chín ra sông lớn câu cua. Tôi có ý tránh người qua lại mặt đập, tránh bà Chín, nên tách khỏi con đê ngăn mặn lúc mờ mặt người. Tôi cắm cúi ra biền lá rồi đi vòng trở lại chỗ Phúc ở.

Đó là một gian chòi nhỏ gần hố tránh bom thật xa ngôi nhà chính. Từ ngày ông Chín Còn phát hiện con gái có mang, chính ông xua đuổi con rời khỏi chỗ ông lập tức.

Tôi vừa gần tới chòi, không may, con Vện ậm ực phóng ra biền lá. Con chó hiện ra lù lù, táo tợn, khiến tôi mất bình tĩnh. Tôi hốt hoảng. Lập tức, tôi nhảy thốc nhảy tháo qua con mương để trổ ra đường cũ. Con Vện dừng lại đứng bên nầy bờ mương tru tréo làm ồn lên một khúc xóm.

Tôi trở về nhà Thịnh với bộ quần áo lấm lem bùn đất. Thịnh ngồi thừ ra một đống trên ván nghe tôi kể chuyện. Hai hôm sau đó có tin dữ như vỡ xóm: Con Vện nhà ông Chín Còn ăn nhầm cơm tẩm thuốc chuột, toi mạng. Thế nên từ ngày con chó dữ dằn bị chết, chặng xóm gần đập ngăn nước mặn đêm đêm trở nên im vắng.

Rồi loay hoay tới đám thành hôn Hai Ngon. Đám cưới nhà Ngon bày ra linh đình, giết cả trâu đãi đằng. Tôi và Thịnh bấm bụng đụng đầu già Chín Còn nổi tiếng khó lục tỉnh, lo giúp đám nhà gái: Che rạp. Kê bàn. Nấu nước... Rỗi việc, Thịnh cuốn thuốc hút hết điếu nầy đến điếu khác. Tôi buồn man mác không rõ lý do. Thịnh rũ rượi trước đó mấy ngày, nay thường ngồi chập lâu trên một vực đất bị đám lá tối trời che khuất. Vẫn điếu thuốc trên môi cháy đỏ, Thịnh buồn dào dào, nhất quyết không chịu ngồi vào sòng đàn ca như những lần trước đây anh dự đám tiệc, mặc dù đêm hôm ấy có tay đàn cò cự phách bên Đường Đào, Phong Lạc được ông Chín Còn mời sang giúp vui.

Thế là tay ca cổ trội nhất xóm, Út Thịnh còn nợ lại nhà ông Chín Còn một bài ca chưa biết lúc nào anh trả được?

Chiến tranh. Sau cái Tết Mậu Thân năm sáu tám, quân địch lò dò giương ra giành giật từng đoạn đê, bờ xóm, từng vạt đất đẫm phèn đẫm mặn cho tới một ngã ba sông... Bắt đầu từ toán cán bộ “Bình định” ăn mặc toàn đen, nhã nhặn, xuất hiện đối thoại với dân trong từng xóm ấp. Tàu chiến mon men ra khỏi thị xã, thị trấn, vãi đạn lên hai bờ lá những tràng rất dài. Bắt đầu từ những toán biệt kích người Mỹ chính thống được hóa trang vằn vện tiệp với màu lá mái dầm xanh rập rờn, lặn ngụp sâu trong từng ngọn rạch. Bắt đầu từ những toán lính “Bảo an” đi trấn thủ mang theo những đụn dây kẽm gai và lểnh nghểnh súng đạn... Xóm ven đê ngủ một đêm thức dậy đã thấy cái bót mọc lên chỗ gốc lụa già. Dân xóm tôi số nán lại, số trôi dạt vào bìa rừng U Minh tạm lánh mặt. Còn riêng tôi lúc bấy giờ được rút lên huyện. Thịnh gia nhập du kích xã. Đặc biệt Hai Ngon được chính quyền ngụy chỉ định làm Chủ ấp...

Từ một người đàn ông lù khù, mù chữ, Hai Ngon thôi chăn giữ bầy trâu thường nghễnh ngãng trên đê. Hai Ngon tập tễnh ăn nói, tập viết chữ, hay cười hề hà để lộ vài chiếc răng vàng cộm nơi khóe miệng. Vẫn kiếng soi, lược sừng chải chuốt phồng lên trong túi áo. Ngon vắng nhà luôn. Út Phúc khóc sưng bụp hai mắt khuyên chồng tạm trốn ra vùng giải phóng nhưng vô ích. “Mầy đuổi thằng chồng của mầy?” Đột nhiên Hai Ngon trừng mắt hỏi vợ. Và như chợt nhớ ra điều gì, Chủ ấp Ngon bước sấn tới chỗ vợ, xẵng giọng: “Đuổi hả? Đuổi tao để lấy ai nuôi thằng du kích con trong bụng mầy?” Ngon hùng hổ nói trắng ra: “Để mầy đi lại với thằng du kích cha nó hả?” Rồi Hai Ngon bắt đầu đánh vợ. Cũng giống như trước đây sau khi ân ái với vợ, ghen nguội, Ngon lồm cồm ngồi dậy. Ngon đay nghiến: “Sướng. Ngất. Với tao, mầy làm vậy. Sướng. Ngất. Với người khác mầy cũng vậy. Sướng. Ngất. Phải không?”

Út Phúc lần nào cũng chỉ biết bưng mặt khóc. Ông Chín Còn rụng rời tay chân khi nhận được tin con, nhưng ông không được ở gần gũi với con nữa. Sau khi bà Chín lưng hứng nguyên loạt đạn từ dưới tàu vãi lên lúc bà nằm ngủ - đúng lúc sau khi bà Chín ném vài chiếc lá mái dầm xuống nước xem nước lớn hay nước ròng - từ đó ông Chín dời nhà vào làng rừng bứt dây choại kiếm sống. Không ai ngờ ông già Chín khó nổi tiếng lục tỉnh đâm giận thằng rể giàu sang đến tím ruột. Thư ông Chín gởi về cho Chủ ấp Ngon có đoạn viết: “Tao biết mầy hồi nhỏ sợ rắn chết cha, nhưng bây giờ mầy đi xây ổ rắn - một ổ rắn độc chết người. Nhân nào thì quả ấy. Mầy không phải rể con gì hết ráo. Yêu cầu mầy đừng đánh đập con tao. Mầy nhớ lấy...”

Chủ ấp Ngon mượn người đọc thư xong vẫn ngồi cười hì hì trước mặt vợ. Sau đó, Hai Ngon phung phí hết tâm trí, sức lực dốc vào việc tội lỗi của hắn, kể cả việc hắn bỏ mặc vợ con ở nhà chui rúc vào đồn làm thêm một việc hệ trọng: Cầm súng!

Chiến tranh. Một đứa bé trai sinh năm sáu chín lên năm tuổi, xóm vẫn chưa ngơi tiếng súng, chưa yên. Nhưng đồn bót, “ấp chiến lược” của giặc bị vỡ ra từng mảng lớn. Vùng giải phóng mở thênh thang lấn sát xóm ven đê. Dân xóm ven đê nơm nớp chờ đợi. Người đàn bà vợ Chủ ấp Ngon mất hết vẻ trẻ trung thời con gái, Út Phúc hốc hác, tiều tuỵ. Tóc loe hoe ngắn ngủn trong khi thằng bé con Út Phúc - thằng Hận - bụ bẫm, đùi ếch với đôi tai to hơi trễ xuống. Đang lúc thằng Hận mê mải chùm trái nắp nước của ông ngoại gởi về dưới chiếc hầm nổi, thì khi đó, một đội viên du kích bị trọng thương tỉnh dậy thấy mình nằm trơ trọi trên trận địa nhàu nát - Anh du kích vừa chiến đấu trong tình huống khốc liệt một thân một mình chống trả với ba cánh quân của địch. Mắt bị hoa lên không nhận ra được hằng chục đối phương đang giãy chết dưới gốc lụa già, anh chỉ nghe lóm đóm tiếng chim cu gù gù trên những đọt dừa, tiếng chim trao trảo ríu ra ríu rít trên ngọn so đũa gần đâu đây. Đôi chân anh cố quẫy nước gọi đồng đội tới chi viện. Duy nhất vẫn bằng cách khua nước vì cổ anh đã khản đắng.

Không một tiếng đáp lại. Không nghe tiếng nước khua lõm bõm. Buổi chiều sắp tàn...

Một lần nữa, anh đội viên du kích gọi đồng đội vẫn bằng đôi chân đạp nước. Lần nầy anh lắng tai nghe có tiếng chân người bước rậm rực ngày càng gần chỗ anh - một tiếng động nghe là lạ khiến anh nhủ thầm: “Người của ta hay của địch?”. Anh chờ đợi sau khi dùng hai hàm răng cắn chốt lựu đạn - thứ vũ khí trang bị cuối cùng của người lính - khiến răng anh bị chảy máu. Miệng mặn đắng. Những giọt máu tươi cứ rỉ ra mằn mặn nhuộm đỏ hai bên khóe miệng, tai lùng bùng, nhưng anh nhận ra được tiếng Chủ ấp Ngon cùng tốp lính đồn đang áp sát tới chỗ anh. Đúng như anh dự đoán, Hai Ngon tới thật - một tên Chủ ấp lăm lăm trong tay khẩu súng đen ngòm. Ngon tới nơi liền dùng một chân hất nước văng tung tóe lên lùm dây mây, mặt áp sâu xuống kề sát mặt anh du kích. “Thịnh tai trâu! Đúng là nó...”. Ngon kêu lớn vừa thở khì khì. Thoáng cái, lùm dây mây bỗng bật cuốn kèn, chuyển mạnh. Một ánh lửa xanh ngời sáng trưng như sét đánh. Và một tiếng nổ tức khắc bùng lên. Rồi sau đó trận địa trở lại im như tờ...

Trên con đê ngăn mặn lúc bấy giờ xuất hiện một người đàn bà tiều tụy, tóc le hoe ngắn ngủn. Chị hớt hơ hớt hải dẫn theo sau đứa bé trai bụ bẫm đi tìm xác chồng. Đứa bé sợ hãi cứ bấu riết hai chân mẹ. Chỉ một mình chị và đứa con có mặt tại đây - một trận địa vắng ngắt đầy dẫy xác chết lúc trời nhá nhem tối. Và cả hai đều luống cuống, vướng vít trong lùm bụi, những khoảng ô rô, cóc kèn, trong bóng tối chập choạng. Mắt đứa bé tỏ hơn. Chiếc cằm vuông săm soi, cử động. Đang ngơ ngác dò tìm làm theo lời mẹ, thằng bé bỗng òa khóc nức nở: “Má. Má. Ba con đây...”. Vừa gọi giật giọng, đứa bé vừa đưa ra trước mặt mẹ một mảnh thịt nhợt nhạt - một vành tai to, hơi vểnh đứng rất quen thuộc. Chị hoảng hốt liền đưa một bàn tay run rẩy cầm lấy một mảnh thịt nhỏ cứng đờ từ trên tay con. Chị đoán ra ngay vành tai của Thịnh. Con chị đã nhầm. Chị thầm nhủ trước mặt đứa bé trong lúc chị lặng đi rất lâu.

Mảnh thịt ấm nóng, run khe khẽ trong lòng bàn tay của chị. Chị nghe trong sâu liên tiếp những cơn đau nhói. Dưới chân chị, những vết máu đặc sánh, lỗ chỗ, khô cứng màu huyết dụ, làm vụt hiện trước mặt chị chân trời đỏ ối, tím thẫm dần, với bầy quạ đen lao vun vút và đàn trâu đen lang thang trên đê. Chị bóp chặt mảnh thịt vụn cứng đờ, không bước đi nổi nửa bước. Chính đứa bé mò mẫm dắt chị đi loanh quanh trong đêm tối dày đặc trước khi trở về nhà.

Và khi tôi, người viết bài nầy trở lại xóm ven đê thì mọi việc đã an bài. Song linh hồn người đã khuất - một thằng bạn thân cùng xóm ven đê - cứ lung linh, rập rờn trên từng ánh xanh của lá mái dầm. Vẫn những chiếc lá mái dầm xanh biếc không bị tàn úa, đàn trâu lim dim ngủ gật ban trưa trên nền bót cũ, những bàu cá ngầu bọt, trảng trống và bông bồn bồn bung bay trắng xóa, dòng sông uốn khúc, trôi nhẹ giữa hai bờ lá... diễn qua trước mặt tôi, trong đó có đôi mắt trẻ thơ - đôi mắt của thằng Hận nhìn tôi đau đáu - Đôi mắt to trong sáng, cháy rực, nhắc nhủ cho mọi người một trách nhiệm lớn, nhắc nhủ tôi người được may mắn hơn cha nó còn vòi vĩnh gì hơn nữa trong sự hưởng thụ tầm thường của cá nhân. Thực sự, sự sống không chỉ của riêng ai tạo dựng được!

Nguyễn Thanh

NỔI BẬT TRANG CHỦ