• Đường dây nóng

    0901.22.33.66 - toasoan@toquoc.gov.vn

  • Liên hệ quảng cáo

    091.358.6788

Khi thánh đường của hội hoạ tiếp tay cho tranh giả!

Văn hoá 26/04/2011 12:18

(Toquoc)-Bảo tàng mỹ thuật quốc gia luôn được xem là thánh đường của hội hoạ. Nhưng điều đó không hẳn đúng ở VN...

(Toquoc)-Bảo tàng mỹ thuật quốc gia luôn được xem là thánh đường của hội hoạ. Nhưng điều đó không hẳn đúng ở Việt Nam khi mà bảo tàng lại chính là nơi khởi nguồn cho vấn nạn tranh giả, tranh chép...

>> Bất lực trước nạn tranh giả!

Bảo tàng cũng chép tranh

Hoạ sỹ Bùi Thanh Phương kể: “Nhà sưu tập tranh danh tiếng người Hồng Kông Hà Thúc Cần khoe với tôi rằng ông ta đã đặt Bảo tàng Mỹ thuật làm phiên bản tất cả những bức tranh quan trọng có trong bảo tàng từ năm 1987, trong đó có một bức của Bùi Xuân Phái là Bến Phà ở sông Đà. Bức phiên bản này đã được Hà Thúc Cần mang đến đấu giá tại “nhà” Christie’s vào tháng 10/1997 với giá bán là 47.000 USD”.

Nhà tư sản Bùi Đức Minh (cha của nhà sưu tập tranh Bùi Quốc Chí) - chủ sở hữu của bộ sưu tập trên 1000 tác phẩm xuất sắc nhất của hội hoạ Việt Nam lúc sinh thời cũng không giấu giếm việc Bảo tàng Mỹ thuật đã xin phép sao lại 13 bức tranh thuộc quyền sở hữu của ông.

Chủ trương sao chép tranh của các danh hoạ Việt Nam thực tế đã diễn ra từ thập kỷ 60 của thế kỷ trước khi Bảo tàng không có khả năng để sở hữu bản gốc. Có hai cách Bảo tàng làm tranh phiên bản: thuê thợ sao chép hoặc đặt hàng chính tác giả sao chép. Nhưng với tính chất độc bản của hội hoạ, không một phiên bản nào có chất lượng nghệ thuật tương đương với bản gốc, ngay cả khi nó được ra đời từ cùng một “người cha”. Hoạ sỹ Hoàng Tích Chù từng tâm sự, ông được Bảo tàng đặt vẽ lại nhiều đến mức mỗi lần nhìn thấy đứa con tinh thần của mình mà phát sợ.

Các tác phẩm nổi tiếng của cố họa sỹ Bùi Xuân Phái là những bức họa thường bị làm giả làm nhái (Ảnh: Internet)

Cái lệ chép tranh này đã gây ra không ít chuyện bi hài như vụ bức tranh Chợ Mường Khương của hoạ sỹ Nguyễn Trọng Niết. Cụ già ở tuổi “bát thập đắc hi hỉ” một lần đến thăm Bảo tàng Mỹ thuật bất ngờ khi nhìn thấy tác phẩm của mình sao mà xa lạ thế, rõ là tranh mình nhưng ai đó đã sao chép lại. Tác phẩm này đã được Bảo tàng bán đi và hiện trưng bày tại Bảo tàng Phương Đông ở Nga, thậm chí còn được in vào sách mỹ thuật của Nga và hoạ sỹ Nguyễn Trọng Niết còn giữ một cuốn do NXB bên Nga gửi tặng. Thế nhưng khi đi gặp người phụ trách để khiếu kiện thì cụ nhận được câu trả lời: “Tranh của cụ chứ còn của ai? Cụ già rồi nên bị lẫn, cụ không nhận ra tranh của mình đó thôi”. Hoạ sỹ Nguyễn Trọng Niết phải mang cuốn sách có in bức Chợ Mường Khương ra dẫn chứng nhưng vị cán bộ này lại cười cụ: “Chắc cụ đã từng vẽ hai bức mà vì tuổi già trí nhớ kém nên cụ đã quên đó thôi”.

Hoạ sỹ Bùi Thanh Phương đã ghi lại cẩn thận câu chuyện trên trong một cuốn sách của anh như một bằng chứng sống động nhất về nạn sao chép tranh mà chính những người làm công tác mỹ thuật cũng không ý thức được.

Hoạ sỹ cũng tiếp tay

Một thực trạng mà các hoạ sỹ Việt Nam đương đại đắt khách không thể phủ nhận là nạn sao chép sáng tạo của chính mình. Không ít hoạ sỹ thành danh, nổi tiếng luôn chia chia ra hai mảng: tranh vẽ cho mình (có đấu tư nghệ thuật nghiêm túc)và tranh vẽ để bán (ít đầu tư nghệ thuật vì phải chạy theo số lượng. Thấy tác phẩm nào của mình bán chạy, hoạ sỹ cứ thế chép lại hoặc thuê thợ chép lại chỉ với một chút ít thay đổi. Hoạ sỹ Trịnh Cung bức xúc: “Có chủ gallery khoe với tôi mỗi tháng họ bán được 20-30 bức ký gửi của một hoạ sỹ. Tôi ngạc nhiên quá về sức làm việc của hoạ sỹ ấy. Vẽ đến 30 bức trong một tháng thì còn gì là sáng tạo nữa”.

Nhiều hoạ sỹ còn sử dụng đi sử dụng lại một motif được ưa chuộng đến mức nhàm chán. Với những motif chưa đủ tính sáng tạo và bản năng nghệ thuật để trở thành phong cách thì sự lặp lại chỉ đơn thuần là những ký hiệu quá dễ bắt chước. Nhà phê bình Phan Cẩm Thượng cho rằng chính việc lười sáng tạo này của hoạ sỹ đã tiếp tay cho nạn tranh chép, tranh nhái hoành hành. “Chép tranh còn có cơ sở để xử lý chứ nhái lại một motif hay ký hiệu thì rất khó bắt bẻ hay buộc tội”.

Trong khi đó, cách xử lý các vụ tranh giả theo kiểu “dĩ hoà vi quý” của các hoạ sỹ cũng tiếp tay cho thái độ ngông nghênh và ngày càng táo tợn của giới làm tranh giả. Ngại “làm to chuyện” vì những phức tạp tốn kém của theo đuổi kiện tụng chỉ là một trong những lý do. Không muốn làm mất lòng gallery, mất nơi ký gửi tranh quen thuộc, ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế của hoạ sỹ cũng là một nguyên nhân không nhỏ. Bởi nếu có mang nhau ra chốn pháp đình thì thiệt hại tài chính mà gallery phải chịu chẳng thấm tháp vào đâu so với món hời kiếm được từ những bức tranh giả. Còn thiệt hại về uy tín thì theo hoạ sỹ Thanh Phương gần như không có: “Các gallery sẵn sàng làm tranh giả thì làm gì có xấu hổ. Khách nước ngoài mua tranh giả đa phần đều biết là tranh giả nhưng giá rẻ thì họ cứ mua, sau đó bán với giá cao hơn”.

Thiếu những cơ chế vận hành chuyên nghiệp

Theo Luật bản quyền, hành vi sao chép tác phẩm mà không xin phép tác giả, chủ sở hữu và đồng sở hữu thì bị phạt từ 1 triệu đến 500 triệu đồng tuỳ theo giá trị của tác phẩm. Nghe mức phạt thì có vẻ cao, nhưng trên thực tế, giá trị thương mại của một tác phẩm hội hoạ ở Việt Nam rất khó định lượng.

Giá tranh hiện tại đều do hoạ sỹ tự đặt giá cho mình hoặc gallery tự ra giá chứ không trên cơ sở của thẩm định. Không có tổ chức hay cơ quan nào làm thẩm định hội hoạ chuyên nghiệp, cũng không có cơ quan giám định chất lượng nghệ thuật, không có phương tiện khoa học để phục vụ cho việc giám định, không có hệ thống đào tạo về chuyên ngành giám định, không có hệ thống nghiên cứu hội hoạ chuyên biệt theo tác giả, không có các phiên đấu giá chuyên nghiệp… Vậy thì lấy cái gì để xác định giá trị của tác phẩm cũng như phân biệt thật - giả, trắng - đen để xử lý các hành vi vi phạm?

Thiệt thòi lớn nhất thuộc về các danh hoạ đã qua đời vì không có ai nghiên cứu chuyên sâu về họ. Trừ trường hợp đặc biệt là danh hoạ Bùi Xuân Phái có con trai am hiểu về ông và trở thành người giám định tranh Bùi Xuân Phái bất đắc dĩ. Ngoài ra có hoạ sỹ Nguyễn Tư Nghiêm - người duy nhất trong 4 cái tên lừng danh “Nghiêm, Liên, Sáng, Phái” còn sống nhưng từ lâu không còn xuất hiện trong đời sống nghệ thuật do tuổi cao. Bù lại, ông có người vợ (hoạ sỹ Thu Giang – con gái nhà văn Nguyễn Tuân) tâm huyết với sự nghiệp của chồng, cứ thi thoảng lại đi “tuần tra” các gallery ở Hà Nội để “xử lý” những bức tranh dám mạo danh ký tên “Nghiêm”.

Còn các bậc như Lê Phổ, Cao Đàm, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan Chánh… thì đành bó tay nơi chín suối. Không có Hiệp hội bảo vệ quyền tác giả của giới mỹ thuật đứng ra lên tiếng. Các cơ quan quản lý nhà nước về văn hoá không có người có trình độ thẩm định mỹ thuật để phát hiện các vụ bán tranh giả trong nước cũng như tại các phiên đấu giá tranh quốc tế.

Nói cách khác, nạn tranh giả trong hơn 20 năm qua là hệ quả của một nền hội hoạ hoạt động thiếu chuyên nghiệp. Và trong lúc chưa tổ chức lại được các hoạt động hội hoạ theo cách chuyên nghiệp, thì tranh thật buộc phải đứng chung sân với tranh giả./.

Hoàng Hồng

NỔI BẬT TRANG CHỦ