• Đường dây nóng

    0901.22.33.66 - toasoan@toquoc.gov.vn

  • Liên hệ quảng cáo

    091.358.6788

Nguyễn Hữu Sơn Luận bình văn chương[i]

29/08/2013 17:43

(Toquoc)- Bàn về vị trí, chức năng của phê bình văn học, tác giả Kiều Thanh Quế trên tạp chí Tri tân số 111, tháng 9-1943 cho rằng, phê bình văn học nằm ở chặng thứ hai, sau văn học sử.

 

(Toquoc)- Bàn về vị trí, chức năng của phê bình văn học, tác giả Kiều Thanh Quế trên tạp chí Tri tân số 111, tháng 9-1943 cho rằng, phê bình văn học nằm ở chặng thứ hai, sau văn học sử, “chỗ mà văn học sử chấm dấu hết là chỗ phê bình văn học bắt đầu”; “Văn học sử là địa hạt của quá khứ, trong đó các nhà văn tên tuổi vững chãi hay thường thường là các nhà văn đã qua đời được nói đến. Phê bình văn học là địa hạt của hiện tại, trong đó không những các nhà văn hiện đại còn sống được nói đến mà cả đến một vài nhà văn quá cố bị bỏ quên, nếu có dịp, cũng được nhắc nhở đến”.

Có thể nói, trong phạm vi phê bình văn học, không có điều gì đã xong xuôi, không cần nhắc lại nữa; ngược lại, tất cả đều cần nghĩ tiếp, bàn lại trên cơ sở tư liệu mới, cách tiếp cận mới, nhất thiết phải nhìn lại quá khứ để trục vớt những hiện tượng bị lãng quên, người viết cần nói lại một cách mới mẻ, có lí, có hệ thống tất cả những gì thuộc về di sản văn học của dân tộc. Quan niệm, cách làm ấy, không chỉ đúng với phê bình thời Kiều Thanh Quế cầm bút, mà thực hợp với con đường phê bình hiện nay của Nguyễn Hữu Sơn, một nhà văn học sử (được học giới biết đến trước hết như một chuyên gia về văn học trung đại Việt Nam).

Trong công trình Văn học trung đại Việt Nam - quan niệm con người và tiến trình phát triển (2005), nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn cho biết, ông bám trụ với công việc nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam đã hơn hai mươi năm. Nhờ sớm được công tác trong môi trường học thuật của Viện Văn học; có điều kiện để gặp gỡ, học hỏi, trao đổi ý kiến với nhiều nhà khoa học ở các trung tâm nghiên cứu và nhiều trường đại học trong cả nước; đặc biệt là qua thực tế chuyên môn, ông cảm nhận được sâu sắc rằng, “bên cạnh yêu cầu tiếp nhận nguồn tri thức lý luận, công việc nghiên cứu đòi hỏi phải nắm chắc lịch sử vấn đề thấy rõ thế hệ đi trước đã thực hiện đến đâu và xác định nhiệm vụ học thuật tiếp theo cho cá nhân”. Nghĩa là, đối với ông, phải biết được những giới hạn, những con đường mà người khác đã đi và đã có thành tựu, nhưng lại phải dò được một cánh cửa, một lối đi, một địa chỉ mới phù hợp với mình. Cái khó đầu tiên đối với người nghiên cứu là tìm đường, chọn đường, nhận đường. Chọn được đúng con đường cần đi tức là anh đã có một địa chỉ để đến và gắn bó lâu dài, hay có cơ hội “sống sót” trong nghề viết. Vấn đề còn lại là phương tiện, cách cấu trúc, cách sử dụng… các bộ công cụ, các phương tiện, các thao tác. Người viết nào cũng muốn chiếm hữu được một mảnh đất riêng, một “địa chỉ riêng” thuộc về mình. Chọn được địa chỉ đắc địa, có điểm tựa - hướng nhìn tốt, lại phù hợp với “bản mệnh” của mình, cái tạng của mình thì ăn nên làm ra, giữ được của (tác phẩm/ công trình) theo năm tháng. Thành công của người sáng tác lẫn nghiên cứu là có riêng một “ngôi nhà” (chung cư cũng được), nhưng nhất thiết phải có “sổ đỏ”, có “số nhà” hẳn hoi, cũng có thể cơi nới thêm cho đủ rộng dài, để thường xuyên đi về đó, ở lại đó, sống ở đó (theo tất cả các ý nghĩa mà nó có được). Nguyễn Hữu Sơn từng phát biểu quan niệm rằng: thực chất của công việc nghiên cứu văn học sử là “tìm đến những cách hình dung mới, cách thức tiếp cận mới về quy luật, các tác gia, tác phẩm, giai đoạn và tiến trình văn học”. Đối với, bộ môn này, ông đã đóng góp một số công trình/ chuyên luận riêng đáng chú ý, chẳng hạn: Loại hình tác phẩm Thiền uyển tập anh (Nxb. KHXH, 2002), Văn học trung đại Việt Nam - quan niệm con người và tiến trình phát triển (Nxb. KHXH, 2005). Đã viết chung, in chung: Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam (Nxb. Giáo dục, 1997). Phiên Nôm, giới thiệu Cung oán thi (Nxb. Văn hoá - Thông tin, 1994). Đã viết chung, sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn, giới thiệu: Nguyễn Trãi - về tác gia và tác phẩm (Nxb. Giáo dục, 1998), Nguyễn Du - về tác gia và tác phẩm (Nxb. Giáo dục, 1998), Trương Tửu - Tuyển tập nghiên cứu, phê bình (Nxb. Lao động, 2007), Trương Tửu - Tuyển tập văn xuôi (Nxb. Lao động, 2009), Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam (Nxb. Thanh niên, 2009), Tạp chí Tri tân (1941-1945) - Phê bình văn học (Nxb. Hội Nhà văn, 1999), Tạp chí Tri tân (1941-1945) - Truyện và ký (Nxb. Hội Nhà văn, 2000), Du ký Việt Nam - Tạp chí Nam phong, 1917-1934, ba tập (Nxb. Trẻ, 2007), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam: Thế kỷ X-XIX, Tập II (Nxb. Giáo dục, 2007)… Đó là những tác phẩm/ công trình nghiên cứu hữu ích, từ nhiều phương diện khác nhau giúp độc giả thấy rõ hơn tầm vóc, sự nghiệp, đóng góp của một tác giả, các cách diễn giải khác nhau về họ, diện mạo của một số khu vực văn học, thể loại văn học, làm sáng giá nhiều giá trị văn chương dân tộc; biểu lộ sự trân trọng những di sản văn học quý giá của tiền nhân.

Không chỉ là nhà văn học sử, Nguyễn Hữu Sơn còn là một nhà phê bình văn học xông xáo, cơ động và đa dạng. Nói xông xáo bởi đọc ông chúng ta có cảm tưởng khu vực nào còn ít được chú ý, vấn đề nào vẫn còn có cái để nói, hoặc hiện tượng nào còn nhiều ý kiến khác nhau và đang mời gọi người viết tham gia lý giải, thì ông đều có mặt, góp bàn rất nhiệt tình, thậm chí còn tập hợp các bài viết xung quanh hiện tượng mà dư luận đang quan tâm thành sách in, bất chấp khó khăn, trở ngại. Nói ngòi bút của ông cơ động vì ông thay đổi đối tượng, khu vực, thể loại, cách viết nhanh chóng, liên tục và linh hoạt. Trong phê bình, Nguyễn Hữu Sơn không chịu ngồi yên, ngồi cố định chỗ nào. Nói cho chính xác, ngòi bút của ông nhiều khi nhảy cóc, người đọc khó có thể tìm thấy điểm chung giữa các bài viết để để giáp nối chúng lại với nhau như một chỉnh thể. Tập Luận bình văn chương, tập hợp 26 bài viết, vừa được công bố gần đây, là một thí dụ đích đáng cho trường hợp “nhảy cóc” ấy. Hình như, đối với Nguyễn Hữu Sơn, không có gì thuộc về văn học mà lại xa lạ với nhà nghiên cứu - phê bình; đối tượng của phê bình không cố định, không ổn định, nó thay đổi theo thời tiết văn học, và tùy thuộc vào hứng thú, sở trường, sự nhạy cảm… của từng người viết. Cũng bởi ngòi bút cơ động và xông xáo, chủ động dự phần vào nhiều hiện tượng văn học đã và đang diễn ra, cho nên sản phẩm phê bình văn học của ông phong phú, đa dạng. Ít người làm nghiên cứu văn học trung đại nào lại có phạm vi hoạt động phê bình rộng như Nguyễn Hữu Sơn. Mâm cỗ phê bình mà Nguyễn Hữu Sơn bày ra chiêu đãi độc giả luôn có nhiều món, nhưng mỗi món chỉ có một ít làm mồi, nếu nhấm nháp thong thả và chỉ cốt thưởng thức cái hương cái hoa thì cũng tạm gọi là đủ dùng. Đọc văn phê bình Nguyễn Hữu Sơn ta phải chuẩn bị tâm lý sẵn sàng cho một chuyến phiêu lưu vô định, vô hướng - đi hết chuyện này đến chuyện khác. Phê bình là kể cho độc giả nghe một câu chuyện mà ta góp nhặt dọc đường đi. Có ai đó ghen tị mà kêu rằng, Nguyễn Hữu Sơn muốn choán hết chỗ phê bình của chúng ta rồi, kể cũng thông cảm với người ấy được dăm phần. Ngoài: Về một hiện tượng phê bình (Viết chung - biên soạn, giới thiệu, Nxb. Hải Phòng, 1998), Điểm tựa phê bình văn học (Tiểu luận - phê bình, Nxb. Lao động, H., 2000), Luận bình văn chương (Tiểu luận - phê bình, Nxb. Văn học, H, 2012), tác giả Nguyễn Hữu Sơn còn viết hàng trăm tiểu luận, phê bình và biên soạn hàng chục đầu sách về văn học nhà trường khác. Một nhà phê bình văn học, theo nghĩa mà Kiều Thanh Quế hình dung, trước hết phải là nhà văn học sử; và chừng nào đạt được như thế, thì anh ta mới có thẩm quyền tham gia đánh giá các sự kiện, hiện tương văn học đương thời. Nhà phê bình phải nhìn các sáng tác mới, nhà văn mới bằng “con mắt lịch sử” của người trải nghề lịch lãm để nhận chân giá trị; cần nhìn văn học như một tiến trình, chủ động trang bị tri thức văn học sử vững chắc, nắm vững văn học trung đại, văn học cận đại, hiện đại để đi đến cái đương đại. Nguyễn Hữu Sơn là một người như thế.

Trong Lời dẫn cuốn Luận bình văn chương, Nguyễn Hữu Sơn chia sẻ trải nghiệm của mình như sau: “Câu chuyện phê bình và người viết phê bình văn chương không hiếm niềm vui mà cũng thật nhiều hệ lụy. Trước hết anh ta phải có nội lực đào sâu nhận thức và mở rộng miền suy tưởng, có năng lực độc lập trong phân tích và đánh giá các hiện tượng văn học, đủ bản lĩnh để tự vượt qua mọi ảo tưởng và biết phản biện lại chính mình. Trước sự phán xét của công chúng và thời gian, anh ta cần thể hiện bản lĩnh người cầm bút, biết trước rằng thiên hạ rồi đây sẽ chỉ vào từng trang chữ mà bảo rằng: “Mỗ này trắng! Mỗ này đen! Mỗ này nhờ nhờ! Mỗ này vừa trắng vừa đen vừa nhờ nhờ!”… Ở đây, tác giả đề cao phẩm chất chuyên môn trong phê bình, khẳng định người cầm bút phải thực sự có trách nhiệm, cẩn trọng, khắt khe với trang viết, đồng thời cũng cần trau dồi được bản lĩnh sẵn sàng đối thoại, chấp nhận những bài “phê bình sự phê bình”, lại cần hiểu rõ cơ chế thử thách của thời gian và công chúng đối với sản phẩm mình làm ra, để có thể tự tin, bình tĩnh, thoải mái theo đuổi công việc này.

Nhận định về các chủ thể tham gia hoạt động phê bình và con đường hình thành tính chuyên nghiệp trong phê bình văn học hôm nay, nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn có lý khi cho rằng: “Tôi vẫn nghĩ trong thiên hạ vốn không có nhà phê bình chuyên nghiệp, không có sẵn nhà phê bình chuyên nghiệp và điều này thật khác xa so với các ngành kĩ thuật. Trên thực tế, mỗi người trong giới chúng ta từ những công việc và ngành nghề khác nhau mà trở về hội tụ dưới mái nhà “phê bình”. Trong số đó có kẻ mới người cũ, có kẻ gần người xa, kẻ thân người sơ, kẻ học nhiều người học ít, nhưng vốn đều làm những công việc chuyên môn khác nhau; chẳng hạn là nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, nhà giáo dạy văn, nhà báo trông coi mục phê bình, nhà biên tập ăn lương xuất bản, ông công tác đoàn thể chuyển sang lãnh đạo văn nghệ… Họ viết phê bình, nhập cuộc làng phê bình và tự nâng cấp thành nhà phê bình chuyên nghiệp, đạt tới tính chuyên nghiệp trong phê bình và nhiều người được học giới thừa nhận”. Cũng chính nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn trở thành nhà phê bình chuyên nghiệp theo một trong những con đường như thế. Công việc chính của ông, cho đến nay, vẫn là nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỷ XIX, ông thường đi sâu khảo sát thơ văn Lý - Trần, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Tú Xương…

Luận bình văn chương gồm các bài được Nguyễn Hữu Sơn viết và công bố trên báo chí trong khoảng mười năm gần đây. Tập tiểu luận này “không chia thành từng phần riêng rẽ, nhưng được trình bày theo ba chủ điểm chính: Hình dung về đời sống phê bình và một vài vấn đề văn học sử thế kỉ XX - Đọc và điểm sách - Trao đổi với Trần Mạnh Hảo”. Chùm bài phê bình về Thơ mới, ký, thể tài du ký (chiếm 1/3 dung lượng) cung cấp cho độc giả nhiều tư liệu, cách nhìn có tính phát hiện và mới mẻ, giúp chúng ta hình dung được ngày càng đầy đủ hơn, sinh động hơn về thơ mới, tránh những ngộ nhận và đánh giá lặp lại về giai đoạn thơ này; người viết cho thấy một bức phác thảo vẫn đang chờ đợi những khám phá sâu hơn, những nét vẽ chi tiết hơn nữa về thể ký, thể tài du ký. Những bài về Đề cương văn hóa Việt Nam, thực trạng phê bình thơ, tính phản biện - tranh luận trong nghiên cứu, phê bình, văn học Việt Nam hiện đại trong tầm nhìn các nhà Việt học, thơ Mai Quỳnh Nam, thơ Trương Đăng Dung, Ba người khác của Tô Hoài và các trang phê bình, phác thảo chân dung của Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Hoàng Sơn, Vân Long, Đông La... nêu nhiều ý kiến đáng suy ngẫm, và có thể tham khảo, bàn bạc tiếp. Chùm bài trao đổi với Trần Mạnh Hảo đặt ra các vấn đề về đọc hiểu các văn bản văn học nhà trường, cách đánh giá một công trình lý luận văn học và việc viết sách giáo khoa, bản chất hồn cốt của “lối phê bình Trần Mạnh Hảo”… Luận bình văn chương của Nguyễn Hữu Sơn vừa là một cuộc trở về thoáng qua, nhưng cần thiết, đối với một thời đại trong thi ca Việt Nam, cho thấy nhu cầu nhận thức lại, đánh giá lại, bổ sung và làm sáng rõ hơn của tác giả trước những bước đi quan trọng và diện mạo sinh động của một số thể loại, thể tài văn học đầu thế kỉ XX; vừa là một nhập cuộc mới, phần lớn đi vào các sự kiện cá nhân - các tác phẩm/ công trình mới công bố, nhằm khắc họa chân dung, miêu tả cá tính, ghi nhận những đóng góp, cắt nghĩa những tìm tòi, thành công và chỉ ra giới hạn của dăm bảy người làm thơ, viết văn, viết phê bình văn học quen thuộc trên văn đàn. Luận bình văn chương thể hiện tinh thần luận chiến, phản biện nghiêm túc, nghiêm khắc, đồng thời là một lời kết về một “hiện tượng” phê bình mà đến nay chủ yếu “tự diễn biến” ở trên mạng internet và hầu như không còn những độc giả tinh tế, đích thực quan tâm đọc nữa.

Thanh Huyền

 



[i] Nhân đọc Luận bình văn chương (Tiểu luận - phê bình) Nxb.Văn học, H, 2012, 316 trang.

NỔI BẬT TRANG CHỦ