Thiếu tướng, nhà văn Nguyễn Chí Trung vừa được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam với tiểu thuyết “Tiếng khóc của nàng Út”. Những ngày đầu năm 2009, tác phẩm lại được Nhà xuất bản Quân đội trao giải thưởng tiểu thuyết xuất sắc trong Cuộc vận động sáng tác tác phẩm về đề tài chiến tranh, cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân. Ở cái tuổi xưa nay hiếm, ông vẫn miệt mài cống hiến cho sự nghiệp văn chương nước nhà.
Thiếu tướng, nhà văn Nguyễn Chí Trung vừa được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam với tiểu thuyết “Tiếng khóc của nàng Út”. Những ngày đầu năm 2009, tác phẩm lại được Nhà xuất bản Quân đội trao giải thưởng tiểu thuyết xuất sắc trong Cuộc vận động sáng tác tác phẩm về đề tài chiến tranh, cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân. Ở cái tuổi xưa nay hiếm, ông vẫn miệt mài cống hiến cho sự nghiệp văn chương nước nhà.
Cuốn tiểu thuyết đầu tay
Ở tuổi 80 – cái tuổi mà người ta đã an dưỡng tuổi già, thế nhưng lúc này nhà văn Nguyễn Chí Trung mới cho ra mắt cuốn tiểu thuyết đầu tay – “Tiếng khóc của nàng Út”. Cuốn tiểu thuyết được Hội Nhà văn đánh giá cao về cả nội dung lẫn hình thức thể hiện.
Nhà văn đã “thai nghén” cuốn tiểu thuyết từ khi được trở về Liên khu V chiến đấu, sau ngày tập kết ra Bắc (7/1954), địch đánh phá rất ác liệt, phong trào cách mạng miền Nam bị địch dìm trong biển máu sau các chiến dịch “Tố Cộng, diệt Cộng”, “Luật 10/59” và những trận càn quét, khủng bố điên cuồng của quân đội, cảnh sát chính quyền Sài Gòn. Lúc này ở Liên khu V, số đảng viên từ hơn 28 vạn, chỉ còn lại mấy ngàn ở đồng bằng…
Sau những năm sống, chiến đấu ở Liên khu V, khi hiệp định Pari được ký kết, ông đã bắt tay vào viết chương đầu tiên. Thế nhưng, thực tế cuộc chiến đấu giải phóng hoàn toàn đất nước ngày càng cam go và ác liệt, người nghệ sĩ ấy lại lao đi chiến trường và tạm gác lại những mong muốn riêng của mình.
Sau giải phóng, ông lại làm quân tình nguyện ở Campuchia 20 năm. Bạn bè khuyên ông nên ngồi ở hậu phương để viết, nhưng ông không thể ngồi yên một chỗ được, ông nói: “Các anh bảo mình đi tức là bí người rồi, các anh mới cần mình, mình phải đi thôi”, thế là ông đã ra đi…
Về nước, có thời gian ông làm đại diện báo Nhân Dân rồi làm trợ lý cho Tổng Bí thư, mãi đến năm 2006, sau gần 50 năm, ông mới thực hiện được niềm mong ước là hoàn thành tiểu thuyết “Tiếng khóc của nàng Út” như một món nợ nghĩa tình của ông với mảnh đất Trà Bồng, Quảng Ngãi.
Qua tiểu thuyết “Tiếng khóc của nàng Út”, ông đã làm rõ được tâm địa dã man của kẻ thù và con đường giải phóng của nhiều dân tộc bị áp bức - đấy là khởi nghĩa vũ trang, là giữ vững lương tâm và đạo đức làm người. Chủ đề của tác phẩm được tái hiện thông qua lời của Nguyễn Mậu Tuân (thầy dạy học của Lê Thánh Tông, vị vua tài năng, người đã giải oan cho Nguyễn Trãi): “qua sông rồi phải nhớ nỗi lo lúc chưa qua sông”.
Tơ vương với nghiệp văn chương
Ngay từ những ngày đầu cầm bút, nhà văn Nguyễn Chí Trung đã đau đáu một đề tài tâm huyết, đó là đề tài chiến tranh cách mạng, viết về nhân dân và người chiến sĩ. Đây cũng có lẽ là đề tài xuyên suốt các tác phẩm của ông. Từ Đà Nẵng xuân 1950 (in chung với Nguyễn Văn Bổng và Lưu Nghi), Bức thư làng Mực, Làng Quế, Hương Cau, Khi dòng sông ra đến cửa và Tiếng khóc của nàng Út - tiểu thuyết vừa đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2008.
Bởi công việc đầy ắp nên ông viết không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm của ông đều mang đậm hơi thở và sự sâu sắc về những cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại của dân tộc, đặc biệt là những tác phẩm về cuộc đời chiến đấu của nhân dân lao động. Ông tâm sự: “Không thể nào viết được về nhân dân nếu người viết không vì nhân dân và cùng nhân dân chiến đấu. Qua tấm gương vĩ đại của nhân dân, người viết soi sáng tận cõi sâu tâm hồn mình và tự vấn lương tâm, làm cho mỗi ngày sống, bản thân mình càng yêu nhân dân, sẵn sàng hy sinh vì nhân dân, khao khát nhân dân như đứa bé mới sinh khao khát sữa mẹ, qua bầu sữa mẹ mà nhận biết mẹ mình”.
Là một người gắn bó suốt đời với nhân dân, được nhân dân yêu mến, bạn bè ông kể: họ rất ghen tỵ với Nguyễn Chí Trung khi đi đến đâu ông cũng được bà con hỏi han, quý mến, mừng rỡ, còn khi chia tay các mẹ, các chị, các em cầm tay ông khóc nức nở. Đến tận bây giờ, mỗi lần về xã Tịnh Minh, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi, khi thoáng thấy ông, người dân vẫn bỏ cuốc giữa đồng chạy đến ôm chầm lấy ông. Vừa rồi, ông đem tặng toàn bộ số tiền giải thưởng cho huyện Tây Trà, Quảng Ngãi, góp một phần cùng huyện xây dựng nơi ở nội trú cho trẻ em nghèo người dân tộc. Ông còn dành thời gian đi thăm các cháu nhỏ bị ung thư tại bệnh viện nhi Trung ương. Lũ trẻ đã vẽ tặng ông những bức tranh ngộ nghĩnh mà ông đang treo ở phòng.
Hiện giờ, ông đang sống và làm việc trong một căn phòng nhỏ tại Tạp chí Văn nghệ quân đội. Hàng ngày, ông dành hầu hết thời gian cho việc đọc và viết. Tuy sức khoẻ không còn được như ngày xưa nhưng ông vẫn cố gắng tham gia những hoạt động của Hội Nhà văn, những diễn đàn văn học nghệ thuật, thăm bạn bè và thăm lại chiến trường xưa. Mới đây, ông đã cùng nhiều tác giả hoàn thành cuốn Văn nghệ sĩ Liên khu V – Lý tưởng, nhân cách, sáng tạo. Cuốn sách là dịp để các thế hệ văn nghệ sỹ ở chiến trường Liên khu V và đông đảo bạn đọc ôn lại truyền thống chiến đấu và lao động sáng tạo trong 60 năm qua.
Giờ đây, ông đã quá cái tuổi thất thập cổ lai hi, những bước đi của ông có phần chậm rãi, nhọc nhằn hơn, nhưng hàng ngày ông vẫn miệt mài sáng tác, còn sức khoẻ thì ông còn viết và những trang văn tiếp theo lại là những con người, mảnh đất Quân khu V, nơi mà dù đi đâu ông vẫn muốn có ngày được trở lại. Khi tôi hỏi sắp tới độc giả có được đọc tiểu thuyết mới nào của ông không, ông tâm sự: Ông không nói trước được điều gì, bởi tuổi cao lại bệnh nhiều, nhưng còn sức khoẻ thì ông còn viết…
Gặp ông trong những ngày giáp Tết Kỷ Sửu, tôi thấy sống mũi cay cay khi biết đã nhiều năm, ông chưa được đón 1 cái Tết “bình yên”, khi khắp mọi nơi xa xôi mọi người đều trở về quê nhà sum họp với gia đình, ông lại cất bước ra đi. Rất nhiều năm, ông đều bắt đầu bằng những chuyến đi như thế. Đúng lúc giao thừa và chỉ đi và về một hướng: nơi ông từng lăn lộn với vùng kháng chiến. Năm nay cũng vậy, ông đã chuẩn bị cho mình chuyến trở về với mảnh đất, với những con người đã nuôi ông trong suốt những năm kháng chiến, mảnh đất Trà Bồng, Quảng Ngãi.
Theo CPV