• Đường dây nóng

    0901.22.33.66 - toasoan@toquoc.gov.vn

  • Liên hệ quảng cáo

    091.358.6788

Trung Quốc: Những vấn đề kinh tế-xã hội nổi bật (Kỳ 2)

Thế giới 16/10/2009 09:31

(Toquoc)–Trung Quốc chưa điều chỉnh rõ mô hình kinh tế,dù kỷ nguyên tăng trưởng dựa xuất khẩu đang lụi tàn.

(Toquoc) – Trung Quốc đề một số giải pháp dài hạn, nhưng chưa điều chỉnh rõ rệt mô hình kinh tế, mặc dù kỷ nguyên tăng trưởng dựa vào xuất khẩu đang lụi tàn.

Các nhà phân tích kinh tế chính trị quốc tế gần đây thảo luận nhiều về mô hình kinh tế Trung Quốc hậu khủng hoảng kinh tế toàn cầu, những thách thức đặt ra cho nền kinh tế sắp tiến lên vị trí thứ hai thế giới và vị thế của con rồng Trung Quốc:

Mô hình châu Á lụi tàn? “Hổ sa cơ, rồng lỡ vận”

Theo nhiều nhà nghiên cứu phương Tây, kỷ nguyên tăng trưởng dựa vào xuất khẩu đã kết thúc ở hình thức hiện nay của nó. Từ năm 2005-2008, mức tiêu dùng của Mỹ đã tăng vọt tới hơn 70% GDP Mỹ và tỉ lệ tiết kiệm hộ gia đình của Mỹ giảm xuống dưới số không. Đó là những chênh lệch lớn trong lịch sử, do lệch lạc của chủ nghĩa tiêu dùng theo mô hình anglo-saxon. Cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ tháng 9/2008 đã xoá sạch 2/5 giá trị các cổ phần của Mỹ và làm xói mòn về cơ bản giá trị nhà ở của Mỹ. Khi người Mỹ bước vào một thời kỳ căn cơ tiết kiệm để xây dựng lại bản quyết toán thu chi gia đình của mình, họ sẽ mua ít hơn các sản phẩm của châu Á. Như vậy, phải chăng điều đã đưa châu Á đi xa trong thế kỷ 20 có thể không đưa nó đi xa nhiều hơn nữa trong thế kỷ 21?

Tập chí Foreign Affairs (Mỹ), số 7 và 8 /2009, cho rằng, với cuộc khủng này, “hổ sa cơ, rồng lỡ vận”; sự tăng trưởng dựa vào xuất khẩu đã làm trật bánh các nền kinh tế châu Á.

Trung Quốc đạt nhiều thành tựu trong lĩnh vực khoa học vũ trụ

Để bắt đầu cái được dự báo là “thế kỷ châu Á” là một con đường gian khó.

Công cuộc công nghiệp hoá sau chiến tranh của châu Á thể hiện một đặc tính của chủ nghĩa dân tộc và tính tự túc. Nhưng mô hình dựa vào xuất khẩu mà các nước châu Á đi theo lại khiến họ phụ thuộc hơn bao giờ hết vào thị trường phương Tây. Giờ đây mô hình tăng trưởng kiểu đó đang lụi tàn. Sự suy thoái kinh tế không chịu trách nhiệm về điều này; nó chỉ làm trầm trọng thêm các vấn đề đã tồn tại.

Việc xem xét lại toàn bộ mô hình xã hội của châu Á trong nửa thế kỷ tới sẽ là một nhiệm vụ cũng lớn lao như việc cải cách các nền kinh tế của nó trong nửa thế kỷ đã qua. Đó sẽ là một quá trình khó khăn và lâu dài, cần phải bắt đầu ngay lúc này.

Mô hình kinh tế Trung Quốc hậu khủng hoảng chưa rõ đường nét

Tiêu dùng thiếu hụt luôn là một mặt quan trọng trong mâu thuẫn mang tính kết cấu của kinh tế Trung Quốc. Từ những năm 1990, tỷ lệ đóng góp của tiêu dùng cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc dao động ở mức 50%, trong khi mức quốc tế là 70%. Từ cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính quốc tế hiện nay, Trung Quốc cần xoay chuyển cục diện tăng trưởng kinh tế quá dựa vào nhu cầu bên ngoài, phải mở rộng kích cầu trong nước; trong khi điều quan trọng của mở rộng kích cầu trong nước là mở rộng nhu cầu tiêu dùng nội địa. Nhưng họ đang làm việc đó như thế nào?

Những người tiêu dùng giàu có và hiện đại ở Trung Quốc đang phần nào làm thay đổi bộ mặt thị trường tiêu dùng của nước này. Theo các chuyên gia, những yếu tố trên có thể sẽ định hình lại cơ cấu kinh tế toàn cầu trong thập kỷ tới, mà Trung Quốc sẽ là thị trường tiêu thụ hàng hoá lớn nhất. Rất có thể Trung Quốc sẽ vượt Mỹ để trở thành thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới vào năm 2020. Các nhân tố cơ bản cho sự tăng trưởng tiêu thụ trong nước ở Trung Quốc chính là tiến trình đô thị hoá, thu nhập của nông dân gia tăng, cùng với thế hệ trẻ giàu có hơn và có xu thế tiêu tiền và hưởng thụ nhiều hơn.

Trong biểu đồ diễn biến tiêu dùng toàn cầu, mua hàng qua mạng tại Trung Quốc đang nổi lên một cách rõ nét. Theo iResearch, một công ty chuyên về điều tra thị trường trực tuyến, giao dịch thương mại điện tử của người Trung Quốc trong quý II vừa qua đã tăng 91,9% so với cùng kỳ năm trước, đạt 56,36 tỷ Nhân dân tệ NDT (8,26 tỷ USSD), cao hơn rất nhiều mức tăng trưởng 15% của thị trường bán lẻ nước này. Nhu cầu về hàng ngoại nhập ở Trung Quốc trong thập kỷ tới cũng sẽ tăng.

Hầu hết các nền kinh tế phát triển khác, quá trình điều chỉnh mô hình kinh tế cho thời kỳ hậu khủng hoảng mới chỉ đem lại một số đường nét, còn bức tranh chung cần thời gian mới rõ rệt. Những thỏa thuận của G-20 Pittsburgh cho thấy con đường tìm kiếm mô hình phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa hậu khủng hoảng còn khá dài. Với Trung Quốc, từ những giải pháp khắc phục khủng hoảng và bản thân sự tiến hóa của tăng trưởng kinh tế-xã hội Trung Quốc, nổi lên một số yếu tố sau đây:

Trong tình trạng sản xuất dư thừa hiện nay, Trung Quốc cần phải đẩy nhanh cải tổ cơ cấu và giảm bớt sự phụ thuộc vào xuất khẩu. Nói cách khác phải tiêu thụ nhiều hơn, chứ tỷ lệ tiết kiệm của các hộ gia đình tại nước này vẫn còn rất cao (37%).

Để khôi phục tiêu dùng, một trong các biện pháp lớn được áp dụng trong thời kỳ khủng hoảng hiện tại là “đưa đồ điện gia dụng xuống nông thôn”. Chính sách này là một trong những biện pháp kích cầu thị trường tiêu dùng nông thôn, mục đích là nhằm hướng dẫn các doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ đồ điện gia dụng chất lượng tốt, giá rẻ nhằm vào thị trường nông thôn, bà con nông dân mua đồ điện gia dụng sẽ nhận được một khoản trợ cấp của Nhà nước. Năm 2009, Ngân sách Trung ương Trung Quốc đã chi 25 tỷ nhân dân tệ tiền trợ cấp cho việc này. Theo thống kê chưa đầy đủ, tính đến cuối tháng 6 năm nay, chương trình “đưa đồ điện gia dụng xuống nông thôn” đã giúp tiêu thụ tổng cộng 13.000 đồ điện gia dụng các loại, doanh thu lên tới 20,8 tỷ nhân dân tệ. Chính phủ Trung Quốc còn ban hành các chính sách và biện pháp khuyến khích “đổi cũ lấy mới” về ô tô, đồ điện gia dụng, trợ cấp ngân sách khoảng 7 tỷ nhân dân tệ cho việc đổi cũ lấy mới đối với một số dòng xe và 5 loại đồ điện gia dụng. Số xe ôtô thanh lý ở Trung Quốc năm nay sẽ lên đến 2,7 triệu chiếc, đồ điện gia dụng đào thải sẽ lên đến gần 90 triệu chiếc. Điều này sẽ thúc đẩy kích cầu lên tới hơn 500 tỷ nhân dân tệ.

Tuy vậy trong khi điều chỉnh kết cấu kinh tế, nâng cấp ngành nghề, Trung Quốc còn áp dụng biện pháp hỗ trợ các điểm tăng trưởng xuất khẩu mới. Các cấp chính quyền địa phương vẫn tích cực ủng hộ mở rộng xuất khẩu của ngành công nghệ cao và các doanh nghiệp cơ điện, nâng cao tỷ trọng của sản phẩm thương hiệu và sản phẩm có quyền sở hữu trí tuệ tự chủ.

Trong quá trình cải cách cơ cấu kinh tế, trong lĩnh vực điều chỉnh cơ cấu công nghiệp, chính phủ Trung Quốc nhận thức cần triển khai nhanh ngành dịch vụ vì đây là lĩnh vực tạo ra rất nhiều việc làm cho người lao động. Hiện ngành dịch vụ ở Trung Quốc chiếm khoảng 41% GDP, thấp hơn nhiều so với các nước phát triển và mức trung bình của thế giới. Thế nhưng, trong 10 chính sách công nghiệp do chinh phủ Trung Quốc đưa ra từ đầu năm về thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chỉ có một chính sách liên quan tới ngành dịch vụ. Khu vực dịch vụ sẽ không cứu nền kinh tế Trung Quốc khỏi cuộc khủng hoảng ngày nay, nhưng nó sẽ đặt nền móng cho sự tăng trưởng cân bằng hơn trong thập niên tới.

Đẩy mạnh đầu tư ra ngoài: Jacob Wood, ông chủ của 15 cơ sở sản xuất tại Nigeria

Đầu tư ra nước ngoài là một quá trình phân phối lại công nghiệp toàn cầu, đồng thời làm giảm bớt những nguy cơ liên quan đến tỷ giá hối đoái cũng như việc quá phụ thuộc vào trái phiếu Mỹ. Đây cũng là lúc Trung Quốc rút dần khỏi lợi thế thặng dư thương mại để hướng về một cơ cấu công nghiệp tích cực trong dài hạn. Quá trình này có thể sẽ giúp thúc đẩy cuộc chuyển đổi cơ cấu kinh tế rất cần thiết với Trung Quốc, làm tăng thêm lợi thế cho Trung Quốc trong cuộc cạnh tranh về vốn ngày càng khốc liệt trên thế giới. Một số nhà quan sát cho rằng, kỷ nguyên “Trung Quốc sản xuất" đang được thay thế bằng "Trung Quốc sở hữu”. Đây là một quá trình không tránh khỏi khi nền kinh tế phát triển đến một giai đoạn nhất định mà cụ thể là khi GNP bình quân đầu người đạt từ 2000-4740 USD. Tuy vậy, Trung Quốc vẫn còn phải đi một quãng đường khá dài.

Năm 2008, kim ngạch đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc năm 2008 đạt gần 56 tỷ USD, tăng 110% so với năm 2007. Đây là lần đầu tiên, đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc vượt 50 tỷ USD. Khoảng 12.000 doanh nghiệp đầu tư trực tiếp vào hơn 170 nước và khu vực trên thế giới, bao phủ gần 72% diện tích toàn cầu. Trong sáu năm qua, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc đã vượt quá 65%. Tuy nhiên, thống kê cho thấy, năm 2007, giá trị FDI của Trung Quốc mới chỉ chiếm 5% tổng FDI thế giới, thấp hơn nhiều so với Nhật Bản, Đức và Mỹ.

Chính phủ Trung Quốc bắt đầu triển khai chiến lược đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bộ Thương mại Trung Quốc ban hành một số quy định về quản lý đầu tư, khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư và mua lại tài sản ở các nước khác. Bộ này cũng đang khẩn trương soạn thảo hai quy định về quản lý hợp tác lao động nước ngoài và hợp tác đầu tư nước ngoài.

Các công ty lớn của Trung Quốc cạnh tranh ngày một quyết liệt hơn với các tập đoàn  phương Tây. Shell lo ngại về những bất ổn an ninh tại nước này và đã bán một số mỏ. Tại Argentina, chỉ có các doanh nghiệp của Trung Quốc dự định mua lại phần lớn cổ phần của YPF, một công ty Tây Ban Nha.

Các tập đoàn dầu mỏ phương Tây thực dụng nhất cũng đã thừa nhận các doanh nghiệp Trung Quốc là những đối tác năng động. BP và Shell cũng đã liên kết với các doanh nghiệp Trung Quốc để tham gia đấu thầu tại Iraq. Phần lớn nhà quan sát cho rằng các doanh nghiệp Trung Quốc sẽ liên kết với nhau thành một khối để giành chiến thắng trước các tập đoàn phương Tây.

Trung Quốc sẽ trở thành nhà nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới và không còn nghi ngờ gì nữa, các công ty dầu khí Trung Quốc sẽ trở thành những nhân tố quan trọng nhất trong lĩnh vực này. Các tập đoàn quốc doanh Trung Quốc cũng ra sức thâu tóm các cơ sở khai thác mỏ cũng như các tài nguyên thiên nhiên từ mọi miền thế giới.

Vai trò nhà nước sẽ tăng cường. Thực tế từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã bác bỏ những lập luận được đưa ra cuối thế kỷ trước nhằm hạ thấp vai trò của nhà nước có chủ quyền trong thời đại toàn cầu hóa. Trong thời kỳ khó khăn vừa qua, chính các nhà nước có chủ quyền đã đưa ra những chương trình chống khủng hoảng, biện pháp ổn định và sự bảo đảm xã hội cho người dân, góp phần ổn định kinh tế thế giới, chứ không phải các công ty đa quốc gia hay các tổ chức quốc tế.

Có nhiều khả năng, Trung Quốc một mặt duy trì vai trò điều phối của thị trường, nhưng mặt khác phải tăng cường biện pháp kiểm soát vĩ mô của chính phủ. Nói cách khác, Trung Quốc chỉ sẽ có sự kết hợp giữa “bàn tay vô hình” của thị trường với “bàn tay hữu hình” của nhà nước.

Cuối cùng là đổi mới công nghệ. Chính phủ Trung Quốc đã thông báo kế hoạch đầu tư 62,8 tỷ nhân dân tệ (gần 9,5 tỷ USD) từ nay đến hết năm 2010 để thúc đẩy phát triển và tạo các bước đột phá trong các ngành công nghệ then chốt. Chương trình bao gồm các dự án chế tạo máy bay và các thiết bị điều khiển số hiện đại, phát triển hệ thống thông tin điện thoại không dây băng rộng thế hệ mới, sản xuất phần mềm và ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất chế biến. Ngoài ra, chương trình cũng tập trung cho việc phát triển các mỏ dầu lớn, xây dựng các nhà máy điện hạt nhân công nghệ tiến tiến, áp dụng công nghệ mới trong giám sát ô nhiễm nguồn nước, nghiên cứu phát triển các sản phẩn biến đổi gen và các loại thuốc chữa bệnh mới cũng như các phương pháp mới điều trị các căn bệnh truyền nhiễm như HIV/AIDS và viêm gan do vi-rút. Chính phủ Trung Quốc hy vọng chương trình đầu tư phát triển công nghệ này sẽ giúp thúc đẩy nhu cầu của thị trường nội địa, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định của Trung Quốc trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu.

Thách thức lớn nhiều mặt

Nội dung bao quát của giai đoạn tiếp theo là chất lượng tăng trưởng. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, đã đến lúc Trung Quốc cần hạ thấp mục tiêu tăng trưởng. Chính phủ trung ương cũng như các chính quyền địa phương đều nên chú trọng vào chất lượng tăng trưởng.

Nền kinh tế phải dựa vào chi tiêu đầu tư công một cách đáng ngại, thậm chí khi chi tiêu của khu vực tư nhân có thể đang giảm sút. Trung Quốc không công bố số liệu chi tiết về chi tiêu của khu vực tư nhân. Tuy nhiên, xuất khẩu đã giảm 30% so với lúc cao điểm và cạnh tranh trong nước đang ngày càng tăng do khu vực chế tạo đình trệ, do đó không thể có việc các công ty tư nhân xây thêm nhà máy mới hoặc mua sắm thiết bị mới.

Điều đáng lo ngại hơn là Chính phủ Trung Quốc dường như lại đang đổ thêm tiền vào khu vực bất động sản nhằm hoàn thành mục tiêu tăng trưởng. Sau chính sách thắt chặt đối với khu vực bất động sản hồi năm ngoái, chính sách này dường như đang bị đảo ngược. Thị trường bất động sản đã phục hồi. Nhà cửa bắt đầu mọc lên sau một giai đoạn đình trệ ngắn năm ngoái và giá nhà cũng đã bắt đầu tăng lên ở một số thành phố. Báo chí địa phương đã công khai bày tỏ lo lắng về tình trạng bong bóng trong thị trường bất động sản.

Tăng trưởng tín dụng cũng là một mối lo ngại khác. Giống như các ngân hàng trung ương trên khắp thế giới, Ngân hàng Nhà nước Trung Quốc đã nới lỏng chính sách tiền tệ sau khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng ở Trung Quốc đã tăng lên 7 nghìn tỉ nhân dân tệ (1.283 tỉ USD) trong vòng 6 tháng qua, hơn cả số lượng tiền mà các ngân hàng của Trung Quốc cho vay trong hai năm trở lại đây. Trong khi đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại đang khát vốn. Nhiều doanh nghiệp trong số này đã không thể có đủ tài sản để thế chấp vay tiền ngân hàng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Trung Quốc cần cải cách lại một cách cơ bản nếu muốn tồn tại.

Thách thức tương lai: 1/4 dân số già hóa

Khắc phục phân hóa xã hội là một thách thức to lớn và nan giải. Khu vực nông thôn chưa được quan tâm đúng mức; tích lũy những căng thẳng của quá trình đô thị hóa, tình trạng tham nhũng, sự thất bại trong việc thiết lập một mạng lưới an toàn xã hội toàn diện… Sự chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn vẫn rất to lớn. Theo số liệu của Tạp chí Kinh tế Viễn Đông, mức sống thành thị cao hơn nông thôn gấp 6 lần (tỷ lệ chênh lệch mức sống thành thị-nông thôn thế giới là 1,5 lần). Những người có đặc quyền cũng hưởng lợi nhiều hơn: 90% người có của cải từ nhiều triệu NDT trở lên là "con ông cháu cha".

Joseph Cheng, một chuyên gia về Trung Quốc tại trường Đại học City của Hongkong, giải thích rằng nhiều trong số những vấn đề xã hội bắt rễ sâu tại nước này, đặc biệt là nạn thất nghiệp bắt nguồn từ tình trạng dân số quá đông. Cheng nhận xét: “Dân số 1,3 tỷ người của Trung Quốc là gánh nặng rất lớn đối với đảng cầm quyền. Hiện có từ 120 triệu-200 triệu người thất nghiệp tại khu vực nông thôn muốn chuyển đến các thành phố - điều này gây ra một vấn đề phức tạp lâu dài và tiềm tàng nguy cơ bất ổn lớn”. Không khéo, một bộ phận dân cư, nhất là nông dân vùng sâu vùng xa, bị “hy sinh” trong nỗ lực duy trì tốc độ tăng trưởng cao và để một bộ phận nhỏ bứt phá làm giàu.

Nông dân Trung Quốc đang phải chịu ba sức ép lớn  không ngừng tăng lên: Tìm kiếm việc làm, khám chữa bệnh và học hành. Trong 20 triệu người Trung Quốc sống dưới mức thoát nghèo theo tiêu chuẩn của Liên hợp quốc (1USD/người/ngày), đa số là nông dân. Năm 2008, tính bình quân GDP theo đầu người, Trung Quốc xếp thứ 100/208 quốc gia, lãnh thổ.

Chính phủ đang vật lộn để thiết lập một mạng lưới an sinh xã hội và y tế có thể trải rộng trên toàn quốc, trong khi các chuyên gia dự đoán gần 1/4 dân số sẽ ở lứa tuổi từ 65 trở lên vào năm 2050.

Vấn đề lớn đối với tăng trưởng kinh tế hơn nữa là phải thực hiện các giải pháp cho những “căn bệnh” trầm kha như chia rẽ giàu nghèo, nông thôn thành thị và ô nhiễm môi trường. Song, chưa rõ liệu chi phí lớn dành cho cái gọi là công nghệ “xanh” có giúp Trung Quốc giải quyết được tình trạng ô nhiễm không khí độc hại và không phụ thuộc vào than đá.

Ngoài phạm vi kinh tế, trong những năm qua, Trung Quốc đã nhấn mạnh các mối đe dọa của”"ba lực lượng” - chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa ly khai và chủ nghĩa khủng bố - mà chính phủ nước này nói rằng vẫn tồn tại và tiếp diễn ở hai khu vực thiểu số là Tây Tạng và Tân Cương.

Ngoài ra, trong những năm tới, những cải cách gây thách thức nhất đối với Trung Quốc sẽ liên quan gia tăng tính liêm chính của tòa án, bộ máy hành chính công Trung Quốc, thiết lập tính chuyên nghiệp và sự độc lập của hệ thống tư pháp…

Việc Trung Quốc đối phó như thế nào với những thách thức nêu trên có thể quyết định tương lai của nước này.

Vị thế của con rồng trong tương lai?

Thế giới đang đua nhau dự đoán về tương lai chính trị, địa-chính trị và quân sự của Trung Quốc. Cựu Tổng thống Mỹ George Bush từng đánh giá, “trung tâm của kinh tế thế giới đang chuyển từ Đại Tây Dương sang châu Á”.

Tăng cường "sức mạnh cứng" - nhân tố ổn định giai đoạn kế tiếp

Báo cáo “Những xu hướng toàn cầu 2025” của Hội đồng Tình báo Quốc gia Mỹ cho biết: “Trong vòng 20 năm tới, Trung Quốc tác động đến thế giới nhiều hơn bất kỳ nước nào khác. Đến năm 2025, Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và cường quốc quân sự hàng đầu. Nước này cũng có thể là nước nhập khẩu tài nguyên thiên nhiên lớn nhất và gây ô nhiễm nhiều nhất”. Mặc dù phần lớn dự báo đều cho rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc là không thể tránh khỏi, nhưng không ai tỏ ra quá lạc quan.

Trong một báo cáo nghiên cứu công bố hồi tháng 4 năm nay, tạp chí Newsweek (Mỹ) đã đưa ra dự báo đến năm 2018, Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ và Nhật Bản sẽ trở thành 4 nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Trung Quốc có thể nổi lên như một đối thủ của Mỹ. Khủng hoảng tài chính toàn cầu cho thấy Bắc Kinhphụ thuộc đến mức nào trong lĩnh vực xuất khẩu và kinh tế Trung Quốc liên quan chặt chẽ đến mức nào với kinh tế Mỹ.

Trung Quốc sẽ như thế nào trong 40 và 60 năm tới? Người ta đang tìm cách phân tích các lực lượng định hình tương lai lâu dài của Trung Quốc, để có thể hiểu rõ hơn về những hướng đi có thể và giới đầu tư chuẩn bị tốt hơn để đối phó với những tình huống bất ngờ./.

NỔI BẬT TRANG CHỦ