• Đường dây nóng

    0901.22.33.66 - toasoan@toquoc.gov.vn

  • Liên hệ quảng cáo

    091.358.6788

Học tập và làm theo phương pháp dân vận Hồ Chí Minh

Văn hoá 10/05/2020 09:14

Phương pháp dân vận Hồ Chí Minh có ý nghĩa quyết định để củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân các dân tộc đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân ta, góp phần chăm lo ngày càng đầy đủ đời sống, quyền lợi và hạnh phúc của nhân dân.

Học tập và làm theo phương pháp dân vận Hồ Chí Minh  - Ảnh 1.

Bác Hồ về thăm bà con Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng) tháng 2/1961. (Ảnh tư liệu)

Dân vận vừa là mục tiêu của cách mạng, vừa là phương pháp vận động cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực chất của công tác dân vận là xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Dân là nguồn gốc của sức mạnh, là lực lượng vô địch của Đảng, giúp Đảng vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù và hoàn thành sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Điều này đã được chứng minh bằng thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng ta trong suốt gần chín mươi năm qua.

Ngày 15/10/1949, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn gay go, quyết liệt nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo “Dân vận” đăng trên Báo Sự thật, số 120 - Tác phẩm được coi là “Cương lĩnh” về công tác dân vận của Đảng, nêu lên nhiệm vụ cực kỳ trọng yếu của cả hệ thống chính trị là công tác dân vận và chỉ rõ, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều do dân vận khéo mà có:“Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân, không để sót người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể giao cho”.

Khắc sâu lời dạy của Bác Hồ, quá trình lãnh đạo cách mạng, Ðảng ta đã lấy lợi ích của nhân dân, của dân tộc làm mục đích phấn đấu. Với tư cách là tổ chức chính trị, Ðảng ta đã vươn lên, xây dựng và rèn luyện đội ngũ, tổ chức và hoạt động thật sự tiêu biểu cho ý chí và nguyện vọng của toàn dân, tổ chức và lãnh đạo nhân dân, được nhân dân tin cậy, nuôi dưỡng, chở che, cùng toàn dân vượt qua mọi khó khăn thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giành chính quyền về tay nhân dân, xây dựng đất nước ngày một phồn vinh, tất cả đều vì hạnh phúc của nhân dân. Ðúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết trong tác phẩm Dân vận: những thành công của cách mạng là do dân vận khéo mà đạt được. Ðảng ta đã biết vận động tất cả lực lượng của mỗi người dân, không để sót một người dân nào, gộp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, tạo nên sức mạnh đoàn kết của toàn dân. Và, tại Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ III, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: Thành công của Ðảng ta là ở nơi Ðảng đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân.

Không những chỉ ra nội dung, nhiệm vụ mà Người còn chỉ rõ biện pháp thực hiện công tác dân vận. Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò lãnh đạo, xây dựng Nhà nước thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Theo Người, nhà nước của nhân dân là nhà nước trong đó nhân dân làm chủ, nhân dân có địa vị cao nhất và có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước; nhà nước do nhân dân là nhà nước do nhân dân tự tổ chức ra, từ nhân dân mà ra và dựa vào nhân dân mà hoạt động; nhà nước vì nhân dân là nhà nước phục vụ nhân dân và đem lại lợi ích cho nhân dân, hết sức làm những gì có lợi cho nhân dân và hết sức tránh những gì có hại cho nhân dân. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu sự lãnh đạo phải dân chủ, thiết thực, cụ thể và toàn diện theo đúng đường lối quần chúng của Đảng, dân chủ với nhân dân và vì nhân dân, để sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng mãi trường tồn. Theo Người, để “vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”, Đảng phải lãnh đạo thực hiện tốt những cách thức công tác dân vận: Phải có chỉ thị, mít-tinh, báo chương, sách vở, khẩu hiệu, truyền đơn. Phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ rằng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân thi hành. Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân. Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng. Chỉ có như vậy, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân mới tạo nên sức mạnh của Đảng, vì nhân dân là gốc, nhân dân là chủ và nhân dân làm chủ. Với quan điểm nhất thiết Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đây không chỉ là tiêu chuẩn của một đảng cách mạng chân chính, mà còn là một trong những quy luật tồn tại và phát triển của Đảng ta. Đảng phải lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối cách mạng do Đảng đề ra; lãnh đạo xây dựng Cương lĩnh chính trị, Hiến pháp, pháp luật, cơ chế phát huy vai trò làm chủ của nhân dân theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”; lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và hội quần chúng theo yêu cầu khoa học hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa, đa dạng hóa các hình thức tổ chức, tập hợp và vận động nhân dân; lãnh đạo nhân dân làm tốt nhiệm vụ giám sát, phản biện và góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, nhất là xây dựng các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia phòng, chống quan liêu và tham nhũng, chủ nghĩa cá nhân và hành vi lạm quyền của cán bộ, để giữ vững bản chất cách mạng của Đảng ta.

Phương pháp dân vận Hồ Chí Minh có ý nghĩa quyết định để củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân các dân tộc đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân ta, góp phần chăm lo ngày càng đầy đủ đời sống, quyền lợi và hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được chuyển hóa thành đường lối cách mạng của Đảng ta, theo đó, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân luôn là một chủ trương chiến lược và một vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn luôn kết hợp chặt chẽ sự lãnh đạo của Đảng với phát huy nghị lực sáng tạo của nhân dân; điều tạo nên sức mạnh của Đảng là mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân và có những cơ chế tổ chức thích hợp để nhân dân các dân tộc sáng tạo ra lịch sử của mình một cách tự giác theo đường lối của Đảng. Hiện nay, các cấp ủy, tổ chức đảng đã tổ chức để nhân dân xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, góp ý kiến vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Cương lĩnh chính trị của Đảng, Hiến pháp, các văn kiện đại hội đảng các cấp và dự án luật. Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân thực chất là tôn trọng con người, phát huy sự sáng tạo và mọi lực lượng của nhân dân trong công cuộc đổi mới đất nước, bảo đảm sự tham gia rộng rãi và thường xuyên của nhân dân vào các công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Học tập và làm theo những điều Bác Hồ dạy trong suốt quá trình cách mạng, Đảng ta đã làm tốt công tác dân vận, đưa đất nước ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đại hội XII của Đảng đã đề ra 10 nhiệm vụ trọng tâm về xây dựng Đảng, trong đó có nhiệm vụ tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Trước yêu cầu ngày càng cao của công tác dân vận trong bối cảnh hiện nay, đòi hỏi mỗi cán bộ trong hệ thống chính trị nói chung, mỗi cán bộ dân vận nói riêng, phải nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn phương pháp dân vận Hồ Chí Minh; để nâng cao năng lực công tác, đề xuất những chủ trương, giải pháp và chỉ đạo tổ chức thực hiện, giải quyết có hiệu quả nhất những nhiệm vụ đặt ra.

Ngày 27/5/2016, tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và các chỉ thị, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác dân vận, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: “Xóa bỏ nhận thức sai lầm cho rằng công tác vận động nhân dân chỉ là biện pháp tổ chức, động viên nhân dân thực hiện chính sách của Đảng. Đối với những chủ trương có quan hệ trực tiếp tới đời sống nhân dân, cấp ủy cần lắng nghe ý kiến nhân dân trước khi quyết định. “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát” phải trở thành khẩu hiệu hành động, thành phương châm công tác vận động nhân dân. Phải thực hiện đúng nguyên tắc: Chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và trình độ của nhân dân. Ngay cả trường hợp chính sách đúng rồi mà dân chưa hiểu, chưa đồng tình thì phải ra sức tuyên truyền, giải thích cho dân, biết chờ đợi dân; kịp thời điều chỉnh chính sách cho phù hợp với thực tế cuộc sống. Mặt khác, các cấp ủy, các cơ quan chính quyền có biện pháp tích cực giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, có ý thức và thái độ đúng đắn với nhân dân, yêu thương, gần gũi, tôn trọng, lắng nghe nhân dân; có chương trình, kế hoạch tiếp dân, giải quyết tốt các đơn, thư khiếu tố, các yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của dân; trừng trị nghiêm minh, thích đáng những hiện tượng trù dập, ức hiếp quần chúng”.

Tiếp tục đưa Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng vào thực tiễn cuộc sống, đồng thời, thực hiện tốt phương pháp dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

Một là, phổ biến đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách rộng rãi trong Đảng và nhân dân, nâng cao nhận thức của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước, nghe dân nói và nói cho dân hiểu, gương mẫu và làm cho dân tin, tạo được sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân dân các dân tộc, tập hợp và phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Hai là, công tác dân vận của Đảng và những người làm công tác dân vậnphải luôn kết hợp chặt chẽ ba biện pháp giáo dục thuyết phục, nâng cao đời sống kinh tế nhân dân và thực hiện hành chính công khai, minh bạch trong công tác vận động nhân dân.

Ba là, tôn trọng tín ngưỡng, phong tục, tập quán của mỗi dân tộc, nắm rõ đặc điểm tình hình chung và những khác biệt cụ thể của từng vùng, từng dân tộc về mọi mặt để định ra những chủ trương, kế hoạch thích hợp mà thực hiện; báo cáo, xin chỉ thị cấp trên đối với các vấn đề quan trọng, chống thái độ và cách làm giản đơn hoặc rập khuôn máy móc.

Bốn là, công tác tuyên truyền, thuyết phục phải có tình, có lý, đúng luật pháp, thực hiện tự phê bình, có thái độ cầu thị và đối thoại trong tiếp xúc với cán bộ và đồng bào các dân tộc; phòng và chống tư tưởng "dân tộc lớn”; phòng và chống tư tưởng “dân tộc hẹp hòi”, khắc phục sự tự ti và mặc cảm dân tộc. Cần có sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, đồng bộ, kiên trì, kiên quyết, triệt để trong vận động đồng bào các dân tộc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước để gây dựng sự tin tưởng cho đồng bào./.


Theo Tạp chí Tuyên giáo

NỔI BẬT TRANG CHỦ