(Tổ Quốc) - Beverly Sills và Marilyn Horne được xem là hai giọng nữ huyền thoại của nước Mỹ, với nhiều cống hiến to lớn.
Diva là một danh hiệu cao quý mà công chúng dành tặng cho một số ít nữ ca sĩ có tài năng xuất chúng trong thanh nhạc và âm nhạc.
Đối với hầu hết các nữ ca sĩ đã và đang hoạt động trong nghệ thuật âm nhạc, diva luôn là giấc mơ, khát khao tột bậc của họ, là nấc thang cao nhất mà họ muốn vươn tới để khẳng định sự nghiệp của mình.
Với công chúng, diva là một trong những thước đo để đánh giá, công nhận năng lực, cống hiến của người nghệ sĩ nữ.
Dù danh hiệu này thuộc về công chúng, không có bất cứ tổ chức nào đứng ra xếp hạng hay bình chọn, nhưng nó cũng có những quy chuẩn vô cùng khắt khe mà rất ít nữ ca sĩ có thể đạt được.
Thông thường, một nữ ca sĩ được gọi là Diva cần có giọng hát hiếm thấy, kỹ thuật thượng thừa và cống hiến to lớn với nền âm nhạc.
Rất nhiều ca sĩ từng gây ý kiến trái chiều khi tự nhận hoặc được gọi là Diva. Nhưng cũng có một số ít ca sĩ đóng đinh với chữ Diva, khiến công chúng luôn nhớ đến họ mỗi khi nhắc đến danh xưng này. Họ là những Diva huyền thoại và trác tuyệt, đúng nghĩa nhất, khiến ai cũng ngưỡng mộ.
Cần phải nhắc đến Diva Opera đầu tiên, vì họ là những Diva nguyên gốc, với đầy đủ mọi chuẩn mực cao quý nhất của nền âm nhạc bác học.
Beverly Sills – Giọng nữ cao màu sắc vĩ đại nhất nước Mỹ
Trong lịch sử Opera thế kỷ XX từng nổ ra cuộc chiến bất phân thắng bại giữa giọng toàn năng Maria Callas và giọng spinto soprano Renata Tebaldi, kéo theo sự phân chia hai phe khán giả và báo giới. Sở dĩ có cuộc chiến này vì cả Callas lẫn Tebaldi đều quá tài năng, cống hiến, sừng sững như hai tượng đài đứng cạnh nhau, không ai đủ sức nhảy vào so tài với họ.
Nhưng bên cạnh đó, giới mộ điệu Opera cũng được chứng kiến một sự phân chia bất phân thắng bại giữa hai giọng nữ cao màu sắc là Joan Sutherland và Beverly Sills. Được biết, Joan Sutherland là huyền thoại Opera với kỹ thuật siêu đẳng ít ai sánh kịp. Vậy nhưng, Beverly Sills lại được đặt vào thế đối thủ của Joan Sutherland. Điều này cho thấy rõ tài năng và vị trí lớn lao của bà.
Beverly Sills tên thật là Belle Miriam Silverman, sinh năm 1929 tại Brooklyn, New York, Mỹ, trong một gia đình trung lưu lao động chân tay.
Khác với các đồng nghiệp cùng thời, Beverly Sills là một tài năng nở sớm, từng được ví như thần đồng âm nhạc. Mới 3 tuổi, Sills đã chiến thắng trong một cuộc thi hoa hậu thiếu nhi, gây ấn tượng với các giám khảo bằng ca khúc The wedding of Jack and Jill. Tới năm 4 tuổi, bà được hát trong chương trình ca nhạc thiếu nhi của đài phát thanh New York.
Sớm nhận ra tài năng của Beverly Sills, mẹ bà đã cho con gái học thanh nhạc và lọt vào mắt xanh của giảng viên thanh nhạc nổi tiếng Estelle Liebling. Nhờ đó, bà được luyện thanh và tiếp thu với thanh nhạc cổ điển từ rất sớm.
Năm 7 tuổi, Beverly Sills đã biểu diễn trên truyền hình những ca khúc rất khó như Il Bacio – Arditi trong bộ phim Uncle Sol solves it, cho thấy cảm nhạc của bà cực kỳ vượt trội.
Bằng trí thông minh thiên bẩm và năng khiếu bẩm sinh, Sills đã vượt qua những bài luyện thanh đặc biệt khó của Liebling. Ai cũng phải trầm trồ khi một cô gái nhỏ bé có thể hát chính xác 22 aria trong 1 album của Amelita Galli-Curci.
Ngoài ca hát, Beverly Sills còn hoàn thiện được nhiều kỹ năng sân khấu khác như diễn xuất, khiêu vũ, nhảy múa. Bà cũng được tiếp xúc và đào tạo để theo đuổi loại hình nhạc kịch Broadways (thể loại nhạc vũ kịch tổng hợp rất được ưa chuộng ở Mỹ). Sills bắt đầu có chuyến lưu diễn khi mới 15 tuổi với tư cách là ca sĩ biểu diễn những vở nhạc kịch nhẹ của Gilbert và Sillivan.
Tất cả những yếu tố trên đã tôi luyện cho Beverly Sills một bản lĩnh sân khấu lớn và những kỹ năng biểu diễn hoàn thiện nhất, giúp bà nổi trội và khác biệt hơn những đồng nghiệp cùng thời (vốn chỉ thiên về ca hát).
Là một nữ cao màu sắc với khả năng thiên bẩm cộng với rèn luyện nghiêm khắc từ nhỏ, Beverly Sills đã đạt tới đỉnh cao của việc chạy note, điều khiển giọng hát một cách hoa mỹ nhất.
Điểm vượt trội trong giọng hát của Beverly Sills là tốc độ, sự linh hoạt (agility) trong việc chuyển quãng, chạy note. Những bài tập luyện thanh nghiêm khắc, kiên trì ngay từ thuở nhỏ, đã khiến Sills có một làn hơi dài không tưởng, đủ khả năng pianissimo (vuốt nhỏ) các note cao trên C6 một cách nhẹ nhàng, tạo nên những đường legato mịn, mượt, kĩ thuật trillo (rung láy) các note nhạc dễ dàng như làm xiếc và đỉnh cao nhất là những kĩ thuât chạy note, lướt note với tốc độ đáng kinh ngạc.
Nhạc trưởng Thomas Schipper phải ca ngợi: "Điểm độc đáo nhất trong cách thể hiện của Sills là cô ấy có thể điểu khiển giọng hát nhanh hơn bất cứ ai đang tồn tại trên trái đất này" (Nguồn: Nhaccodien).
Danh ca Leontyne Price thì cảm thấy kinh ngạc vì: "Không hiểu cô ấy có thể hát được bao nhiêu triệu note trong một câu nhạc" (Nguồn: Nhaccodien).
Beverly Sills hát rất sáng tạo. Đặc trưng của bà là sử dụng cadenza, biến tấu rất đặc biệt và hoàn toàn khác với các soprano bình thường. Những note thêm, note hoa mĩ trang trí mới lạ, gây bất ngờ đối với hầu hết các khán giả.
Vai diễn thành công nhất, đóng đinh tên tuổi Beverly Sills là Nữ hoàng bóng đêm trong vở Die Zauberflöte của Mozart. Đây là một vai diễn khó, đòi hỏi âm vực rất rộng với 5 note F6 staccato, cũng như các kĩ thuật hát màu sắc phức tạp. Vai diễn này từng gây khó khăn cho rất nhiều coloratura soprano tài năng nhưng không hề hấn gì với Beverly Sills. Với những note cao trong vắt, đầy sức mạnh, kĩ thuật coloratura chuẩn mực, Sills đã có một dấu ấn đáng nhớ với Nữ hoàng đêm tối.
Từ Mỹ, Beverly Sills đi diễn khắp châu Âu. Ngôi vị độc tôn trong những vai coloratura soprano trên sân khấu Opera mà Joan Sutheland đã nắm giữ gần 10 năm đã phải chia sẻ với Beverly Sills.
Không chỉ thành công và được ngợi ca trên sân khấu Opera, Beverly Sills còn một trong những nhà phê bình và quản lý có ảnh hưởng lớn nhất trong giới nghệ thuật biểu diễn.
Giữa những năm 1979 và 1991, bà là tổng giám đốc nhà hát NYCO, nhà hát nơi bà đầu tiên gặt hái được sự đón nhận quốc tế vào những năm 60. Bà đã được bầu giữ chức chủ tịch trung tâm Nghệ thuật biểu diễn Lincoln vào 1994.
Năm 2002, Sills lại nhận chức tổng giám đốc nhà hát Metropolitan cho đến năm 2005. Khi mà hầu hết tất cả mọi người đều nghĩ đến nghỉ ngơi, Sills vẫn theo một thời gian biểu mà có thể làm kiệt sức người chỉ bằng nửa tuổi của bà.
Marilyn Horne – Giọng nữ trung màu sắc huyền thoại của nước Mỹ
Nhắc tới Diva Opera, người ta thường nhớ tới các giọng nữ cao vì họ chiếm hầu hết vai chính. Tuy nhiên, có một giọng nữ trung đã tỏa sáng và trở thành huyền thoại, với đóng góp không thua bất cứ nữ cao nào, đó là Marilyn Horne.
Vào năm 1983, tạp chí New York Times đã đưa cái tên Marilyn Horne vào danh sách 10 ca sỹ vĩ đại nhất trong lịch sử. Bà thậm chí là ca sĩ duy nhất trong danh sách đó vẫn đang hoạt động biểu diễn. Điều này cho thấy, Horne có một vị trí cực kỳ vững chắc trong nền Opera thế kỷ XX.
Trong khi đó, tờ Opera News đánh giá về Horne như sau: "Marilyn Horne – người mà gương mặt và những bài hát đã tỏa sáng – tại nhiều địa điểm – với nhiều phong cách – bằng nhiều phương tiện truyền thông – trong nhiều năm liền – là ca sỹ có ảnh hưởng lớn nhất đến lịch sử nước Mỹ".
Marilyn Horne may mắn sinh ra trong một gia đình có truyền thống âm nhạc. Cha bà là một thầy giáo chuyên đào tạo các giọng tenor còn mẹ lại là một người rất say mê âm nhạc và có giọng nữ cao bẩm sinh rất đẹp.
Ngay từ nhỏ, Horne đã được học nhạc và mới 3 tuổi đã đứng trình diễn trước khán giả. Suốt thời thơ ấu, Horne được tham gia nhiều hoạt động âm nhạc và biểu diễn trên sân khấu, trong dàn hợp xướng. Bà được học hành bài bản về thanh nhạc và chú trọng rèn luyện hơi thở từ rất sớm.
Sau khi dấn thân vào con đường Opera chuyên nghiệp, Horne liên tục gặt hái thành công. Năm 1969, với vai Jocasta trong Oedipus Rex của Stravinsky, Horne đã khiến khán giả xúc động tới mức vỗ tay liên tục 7 phút sau khi diễn xong một cảnh trong màn 3.
Nhận thấy rõ những vở Opera quen thuộc đã bị thống trị bởi các giọng nữ cao, Horne đào sâu vào những vở Opera ít người nghe và đem đến cho chúng một sức sống mới bằng giọng hát điêu luyện, kỹ năng diễn xuất tuyệt vời. Bà được xem là nhà vô địch trong việc giới thiệu những vở Opera tưởng như đã bị quên lãng. Sự kết hợp giữa tiếng hát Horne với Opera của Rossini đã trở thành huyền thoại.
Trên thực tế, danh mục biểu diễn của Horne còn bao gồm cả những vai dành cho giọng contralto (nữ trầm).
Trước thời của Horne, những ca sĩ của Mỹ chỉ được coi là hạng 2 ở châu Âu, trừ một vài trường hợp đặc biệt xuất sắc. Rất khó để ca sĩ Mỹ vượt qua bóng các ca sĩ châu Âu, nơi khai sinh ra Opera. Và chính Horner là một trong những người đi đầu cuộc cách mạng mang lại danh tiếng cho những ca sĩ Mỹ.
Marilyn Horne sở hữu một âm sắc giọng tuyệt đẹp trải đều trên toàn bộ âm vực rộng tới 2 quãng 8 rưỡi. Khác với nhiều nữ trung cùng thời, Horne phát triển giọng hát theo hướng màu sắc và trở thành bậc thầy kỹ thuật, đặc biệt ở mảng Bel Canto.
Bà là một trong số ít giọng nữ trung theo đuổi Bel Canto thành công nhất, với type giọng coloratura mezzo soprano độc đáo. Sự nghiệp của Horne chói sáng khắp thế giới nhờ việc hát những vai cực khó dành cho loại giọng này. Horne chạy note rất đẹp, tinh tế, chuyển quãng điêu luyện và kiểm soát cực tốt quãng trung lẫn trầm. Bà có độc chiêu chạy note từ cao xuống thấp rồi lại lên cao mà vẫn mềm mại, không đem theo sức nặng của chest voice lên như nhiều nữ trung khác.
Ngoài kỹ thuật thanh nhạc, Horne còn có sự thông minh, trí tưởng tượng phong phú trong cách xử lí vai diễn và một thái độ làm việc chuyên nghiệp đáng kính trọng. Bà và bậc thầy Joan Sutherland thường xuyên song ca với nhau, tạo nên thế song hành giữa hai giọng màu sắc huyền thoại (một nữ trung – một nữ cao).
Năm 1995, Horne được là thành viên danh dự của Kennedy Center. Bà vinh dự được tham gia trong những buổi chiêu đãi lớn tại Nhà Trắng dưới thời nhiều tổng thống Mỹ.
Horne được phong là tiến sĩ danh dự của các trường đại học danh tiếng như Juilliard Scholl, Đại học Johns Hopkins, Đại học Rutgers và nhiều trường khác nữa.
Bên cạnh đó Horne còn nhận được rất nhiều giải thưởng từ các quốc gia khác trên thế giới như Commander of the Arts and Letters của Bộ văn hóa Pháp; Commendatore al merito della của Ý; Fidelio Gold Medal của International Association of Opera Directors…
Về cuối đời, Horne vẫn miệt mài đi dạy các lớp master class tại Mỹ và châu Âu. Giọng hát của bà được giữ gìn bền bỉ và trải dài nhiều dòng nhạc ngoài Opera.