• Đường dây nóng

    0901.22.33.66 - toasoan@toquoc.gov.vn

  • Liên hệ quảng cáo

    091.358.6788

Trả lời chất vấn của Đại biểu Quốc hội Dương Văn Phước liên quan đến Cột cờ Hà Nội và việc thu phí tham quan di tích

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nhận được chất vấn của Đại biểu Quốc hội Dương Văn Phước, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam theo Công văn số 1356/TTKQH-GS ngày 16/8/2022 của Tổng thư ký Quốc hội, nội dung chất vấn như sau:

1. Cùng với phát triển du lịch là bảo tồn và giữ gìn các công trình kiến trúc nghệ thuật, các di sản văn hóa. Về vấn đề này, tại Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XV, tôi có nêu vấn đề thực trạng kinh doanh, buôn bán xâm lấn không gian di sản văn hóa Cột cờ Hà Nội với Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, được cử tri cả nước và nhiều Đại biểu Quốc hội quan tâm.

Xin Bộ trưởng cho biết, đến nay Bộ trưởng đã thực hiện những nội dung cụ thể nào để loại bỏ hàng quán xâm phạm di sản văn hóa Cột cờ Hà Nội, trả lại không gian trang nghiêm vốn có của di sản văn hóa Cột cờ Hà Nội?

Theo Bộ trưởng, đâu là những vướng mắc, trở ngại trong việc quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiện nay nói chung và di sản văn hóa Cột cờ Hà Nội nói riêng?

2. Xuất phát từ việc phát huy các giá trị di sản văn hóa phải đi đôi với việc bảo tồn, quản lý và tôn tạo các di sản văn hóa, việc thu phí tham quan chỉ nên để chi phục vụ vào việc quản lý và phát huy giá trị các di sản văn hóa mà không tính vào ngân sách nhà nước vì di tích là tài sản của Nhân dân, bản chất nguồn thu phí tham quan di tích là khách du lịch chi trả. Về vấn đề này, cũng đã được quy định tại Điều 58 Luật di sản văn hóa, Điều 17 Nghị định số 109/2017/NĐ-CP ngày 21/9/2017 của Chính phủ. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, nguồn thu phí tham quan này lại nộp vào ngân sách, được sử dụng để xác định số thu ngân sách địa phương, cân đối chung cho chi thường xuyên và chi đầu tư, không được sử dụng để chi cho hoạt động bảo vệ và quản lý di sản văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa.

Quan điểm của Bộ trưởng về vấn đề này như thế nào? Giải pháp nào để khắc phục tình trạng trên để nguồn thu từ phí tham quan được dành để chi cho việc quản lý, phát huy giá trị các di sản văn hóa?

Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có trả lời cử tri.

Cổng TTĐT của Bộ trích đăng toàn văn phần trả lời của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch theo Công văn số 4489/BVHTTDL-VP ngày 11/11/2022 về việc trả lời chất vấn của Đại biểu Quốc hội Dương Văn Phước.

1. Về chất vấn liên quan đến Cột cờ Hà Nội và những vướng mắc, trở ngại trong việc quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiện nay.

a) Về di tích Cột cờ Hà Nội:

Cột cờ Hà Nội là một hạng mục của di tích Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội (di sản được UNESCO ghi danh), thuộc thẩm quyền quản lý trực tiếp của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích. Để bảo vệ và phát huy giá trị di tích, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đang triển khai Dự án bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội. Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi của Dự án đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thẩm định tại Công văn số 2477/BVHTTDL-DSVH ngày 03/7/2020, theo đó Kỳ đài (di tích Cột cờ Hà Nội) được đề xuất bảo quản, tu bổ và tôn tạo với nội dung: "Không gian xung quanh Kỳ đài sẽ được xử lý giải tỏa các nhà dân, vườn cây, trả lại khoảng không thông thoáng, mở rộng tầm nhìn từ các hướng đến công trình".

Trong quá trình triển khai tiếp theo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ hướng dẫn, có ý kiến đề nghị Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội chỉ đạo các cơ quan liên quan lưu ý tôn tạo, chỉnh trang khu vực đảm bảo tôn nghiêm, trang trọng và mỹ quan.

b) Về những vướng mắc, trở ngại trong việc quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiện nay nói chung và di sản văn hóa Cột cờ Hà Nội nói riêng:

 - Nhận thức về di sản văn hóa chưa thật sự sâu sắc và toàn diện, mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển chưa được xử lý hài hòa: Nhận thức của toàn xã hội về vai trò, tầm quan trọng và giá trị di sản văn hóa còn chưa đầy đủ và tương xứng với vai trò và vị trí của di sản trong đời sống xã hội, chưa coi việc bảo tồn di sản văn hóa là mục tiêu và động lực phát triển bền vững kinh tế xã hội, chưa chú trọng ưu tiên cho việc bảo tồn, giữ gìn di sản. Ở các di tích, bên cạnh việc chấp hành tốt quy định pháp luật trong bảo vệ di sản văn hóa, tình trạng ưu tiên xây dựng các công trình khai thác di sản, mà ít tập trung ngân sách cho việc bảo tồn, tu bổ vẫn còn diễn ra ở một số địa phương. Nhiều nơi còn lúng túng trong việc xử lý hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển; giữa kinh tế và văn hóa, giữa lợi ích trước mắt với sự phát triển bền vững... Việc phát triển du lịch một cách ồ ạt trong khi chưa đầu tư hợp lý cho cơ sở hạ tầng đã làm cho di sản có nguy cơ bị ô nhiễm do quá tải, nhất là trong mùa lễ hội. Tại một số di sản tiêu biểu, như Tràng An, Phong Nha - Kẻ Bàng, Hạ Long, núi Bà Đen, núi Sam đã cho thấy những tiềm năng rất lớn để khai thác du lịch, dẫn đến tình trạng một số tổ chức, cá nhân đã tự ý xây dựng các công trình dịch vụ, du lịch… để đón khách khi chưa được cơ quan thẩm quyền cấp phép (như: việc xây dựng công trình đường lên núi Cái Hạ trong khu vực di sản thế giới Quần thể danh thắng Tràng An ở Ninh Bình, xây dựng tượng Bà Chúa Xứ tại Núi Sam ở An Giang…).

Trên thực tế, hiện nay vẫn còn di tích bị tu bổ sai quy cách, nhất là các di tích được tu bổ bằng nguồn kinh phí xã hội hóa, do buông lỏng quản lý, do sự 3 thiếu hiểu biết của chính quyền và nhân dân ở các địa phương, của những người trụ trì đền, chùa và đơn vị thi công, muốn thay mới toàn bộ các cấu kiện kiến trúc cho bền chắc nên phản đối việc áp dụng các biện pháp nối vá, gắn chắp... theo nguyên tắc của tu bổ di tích; muốn di tích được "xứng tầm", hoặc vì chạy theo lợi nhuận đã dẫn đến làm mới di tích.

- Nguồn lực đầu tư cho tu bổ, giữ gìn di sản văn hóa còn thấp, nhất là di sản văn hóa phi vật thể: Những năm qua, ngân sách Nhà nước đều hỗ trợ cho mục tiêu bảo tồn chống xuống cấp di tích nhưng so với nhu cầu vốn vẫn ở mức thấp, nhiều di tích quốc gia bị hư hỏng, nhưng chưa được hỗ trợ kinh phí tu bổ. Đối với những di tích đã được hỗ trợ từ kinh phí của Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa (nay là Chương trình phát triển văn hóa), nguồn kinh phí đầu tư đối ứng của địa phương rất thấp. Việc triển khai lồng ghép các chương trình ở một số địa bàn tỉnh, thành phố còn thiếu đồng bộ, còn tâm lý trông chờ ỷ lại nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Trung ương. Thiếu chính sách để huy động các nguồn lực tham gia vào đầu tư tu bổ di tích. Việc tái đầu tư nguồn thu trở lại cho hoạt động bảo vệ, tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di sản chưa được thực hiện đầy đủ.

- Nguồn nhân lực quản lý di sản văn hóa còn chưa tương xứng với yêu cầu thực tiễn: Còn thiếu các chuyên gia hàng đầu ở các lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực đòi hỏi kinh nghiệm chuyên sâu về bảo tồn, tu bổ di tích; về vật liệu, hóa bảo quản; về khảo cổ, lịch sử, mỹ thuật; các kiến trúc sư - lực lượng chủ chốt thực hiện tu bổ di tích chưa được tham gia sâu các khóa đào tạo chuyên môn hóa; công tác đào tạo về bảo tồn, tu bổ di tích chỉ mới bắt đầu ở một số trường đại học.

2. Về chất vấn liên quan đến việc thu phí tham quan di tích

Điều 58 Luật Di sản văn hóa (năm 2001) và Điều 17 Nghị định số 109/2017/NĐ-CP ngày 21/9/2017 của Chính phủ quy định nguồn tài chính để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, phục vụ cho hoạt động bảo vệ và quản lý di sản thế giới bao gồm các khoản thu từ hoạt động sử dụng và phát huy giá trị di sản văn hóa, khoản thu từ phí tham quan được thực hiện theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí thuộc ngân sách nhà nước.

 Luật phí và lệ phí năm 2015 quy định cụ thể như sau:

- Theo Danh mục phí tại Phụ lục số 1 quy định: "Phí thăm quan di tích lịch sử do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định đối với công trình thuộc địa phương quản lý.".

 - Khoản 1 Điều "11. Kê khai, nộp phí, lệ phí" quy định:

 "1. Phí, lệ phí theo quy định tại Luật này là khoản thu thuộc ngân sách nhà nước, không chịu thuế."

 - Khoản 1 Điều 12. Thu, nộp, quản lý và sử dụng phí quy định:

"1. Phí thu từ các hoạt động dịch vụ do cơ quan nhà nước thực hiện phải nộp vào ngân sách nhà nước, trường hợp cơ quan nhà nước được khoán chi phí hoạt động từ nguồn thu phí thì được khấu trừ, phần còn lại nộp ngân sách nhà nước.

Phí thu từ các hoạt động dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện được để lại một phần hoặc toàn bộ số tiền phí thu được để trang trải chi phí hoạt động cung cấp dịch vụ, thu phí trên cơ sở dự toán được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, phần còn lại nộp ngân sách nhà nước.".

- "Điều 21. Thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

1. Quyết định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng các khoản phí, lệ phí thuộc thẩm quyền.

2. Xem xét, cho ý kiến để Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đề xuất với Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ các khoản phí, lệ phí thuộc thẩm quyền.".

- "Điều 22. Thẩm quyền và trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

 1. Trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng các khoản phí, lệ phí thuộc thẩm quyền.

2. Tổ chức thực hiện và báo cáo tình hình thực hiện thu phí, lệ phí ở địa phương với cơ quan nhà nước cấp trên có thẩm quyền và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

 3. Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong thu, nộp, quản lý, sử dụng phí, lệ phí theo quy định của pháp luật.

 4. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về phí và lệ phí theo quy định của pháp luật.

5. Báo cáo Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét, cho ý kiến về sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ các khoản phí, lệ phí thuộc thẩm quyền Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trước khi đề xuất với Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định."

Do đó, theo các quy định nêu trên tại Luật phí và lệ phí năm 2015, phí tham quan di tích là khoản thu thuộc ngân sách nhà nước, không chịu thuế; do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định đối với công trình thuộc địa phương quản lý; việc thu, nộp, quản lý và sử dụng phí theo quy định tại Điều 12 Luật phí và lệ phí năm 2015 (trong đó có việc sử dụng chi cho hoạt động bảo vệ và quản lý di tích theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa). Xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm của Đại biểu./.

Toàn văn nội dung văn bản


Thủy Bích

NỔI BẬT TRANG CHỦ