(Tổ Quốc) - GS.TS Trần Văn Bính- Nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa phát triển (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) cho rằng, văn hóa và con người là động lực quyết định sự phát triển đất nước, khẳng định thương hiệu quốc gia.
- 21.02.2022 Để văn hóa trở thành nguồn lực
- 11.04.2019 Nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa và Phát triển của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: Để củng cố đạo đức, giữ đạo đức đừng dừng lại ở vấn đề tuyên truyền
- 31.10.2016 Người có chức, có quyền suy thoái về tư tưởng đạo đức thì sự suy thoái sẽ tác động rất lớn
LTS: Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 đã diễn ra với nhiều vấn đề gợi mở cũng như khát vọng xây dựng văn hóa nước nhà đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước. Để những nội dung của Hội nghị đi vào cuộc sống, gắn với thực tiễn, biến văn hóa trở thành một trong những nguồn lực quan trọng phát triển đất nước Báo điện tử Tổ Quốc khởi đăng tuyến bài viết: "Đưa văn hóa trở thành thương hiệu quốc gia" với những ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, nhằm góp tiếng nói đa chiều cho lộ trình chấn hưng văn hóa trong thời gian tới.
Theo GS.TS Trần Văn Bính, trong quá trình phát triển lâu dài, đất nước luôn trải qua những thời kỳ lịch sử khác nhau. Mỗi thời kỳ phải đặt ra những mục tiêu cụ thể, và để đạt được các mục tiêu đó cần tìm ra động lực cụ thể. Những mục tiêu và động lực đó là khẩu hiệu hành động cho các thời kỳ, phải là cơ sở của mỗi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Quên đi điều đó thì dễ đi chệch hoặc làm chậm sự phát triển lịch sử tất yếu mà các cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước trước đây đã khẳng định.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế ngày càng sâu sắc, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trên các mặt. Thế giới thừa nhận nước ta có an ninh chính trị tốt, kinh tế tăng trưởng có ấn tượng, xóa đói giảm nghèo đạt nhiều thành tựu to lớn... Tuy vậy, chính chúng ta cũng cảm nhận được nhiều khó khăn, yếu kém và thách thức lớn đang bủa vây.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, văn hóa các dân tộc đứng trước những thách thức rất nặng nề. Toàn cầu hóa đòi hỏi mở rộng thị trường, nhưng trong xu thế toàn cầu hóa đã xuất hiện sự thống trị của các thị trường cùng các ảnh hưởng xấu của chúng đối với con người. Sự cạnh tranh giữa các thị trường có thể là sự bảo đảm tính công bằng. Tự do hóa và tư nhân hóa có thể là một bước tiến tới thị trường cạnh tranh, nhưng không phải là sự bảo đảm cho một hiệu quả xã hội lành mạnh. Khi thị trường đã đi quá xa trong việc chi phối những lợi ích chính trị và xã hội, thì các cơ hội và những lợi ích toàn cầu hóa phân bố không đều và không công bằng. Khi những động cơ lợi nhuận của những tác nhân trên thị trường đã trượt khỏi vòng kiểm soát, chúng sẽ thách thức tất cả đạo đức con người. Tình hình đó đã và đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu, và gánh nặng chắc sẽ nghiêng về những nước chậm phát triển và đang phát triển. Điều này cũng dễ hiểu vì những nước chậm phát triển và đang phát triển thường là những nước chưa có đủ một hệ thống luật pháp và những nguyên tắc điều tiết chặt chẽ để chỉ đạo và quản lý các hoạt động kinh tế thị trường. Trong khi đó những nguyên tắc và đạo lý làm người vốn là sản phẩm của nền văn hóa dân tộc đang bị tấn công từ nhiều phía.
Không biết nguyên tắc "thương trường là chiến trường" ra đời từ bao giờ, nhưng cho đến nay, đã bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, nguyên tắc đó vẫn tồn tại và phổ biến. Chính cái nguyên tắc đó là nguyên nhân tạo nên những tiêu cực trong hoạt động kinh tế như gian lận thuế, hàng giả, hàng độc hại tràn lan, môi trường tự nhiên bị xâm hại nghiêm trọng v.v.. Những tác hại đó không những gây khó khăn cho sự phát triển bền vững của đất nước, gây thiệt hại cho người tiêu dùng, tệ hơn nữa, thói gian dối đó đã góp phần làm tha hóa nhân cách của toàn xã hội, làm mất dần tính trung thực, lòng tin yêu và tinh thần hữu ái giữa con người với con người. Đạo đức xã hội bị tấn công cũng từ đó.
Hiện nay, có hiện tượng, ở một số nước đã phát triển cao, đã xuất hiện một ít người rất giàu có sớm nhận thức ra rằng toàn bộ của cải của họ, phần lớn là do xã hội mang lại. Đó là các thành tựu khoa học công nghệ, là đầu óc sáng tạo của đội ngũ quản lý, là trình độ tay nghề vững chãi của người lao động. Từ nhận thức đó họ rất quan tâm đến chất lượng sản phẩm của họ, và một số ít trong đó đã tuyên bố sẽ để lại cho xã hội phần lớn tài sản của mình sau khi qua đời. Họ cũng là những người đóng góp rất lớn cho các quỹ từ thiện trên phạm vi toàn cầu. Dù con số những người đó còn quá nhỏ bé trong thế giới tư bản, nhưng nên chăng phải coi đó như sự thức tỉnh của lương tri con người trong thời kỳ lịch sử mới.
Trong tình hình hiện nay khi đất nước đang đứng trước những thời cơ lẫn thách thức, khi sự nghiệp đổi mới nói chung đã thu được những thành tựu lớn nhưng trước mắt còn vô vàn khó khăn, việc tỉnh táo nhận thức ra những lực cản đang níu kéo chúng ta, hoặc đang có nguy cơ làm chệch hướng phát triển của đất nước, là cực kỳ quan trọng. Phải bằng kinh nghiệm, lý trí và khoa học chỉ ra được mặt mạnh, mặt yếu của chúng ta hiện nay. Việc tập trung nghiên cứu học tập kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước phát triển là rất cần thiết, đặc biệt việc đầu tư cho tổ chức nghiên cứu và phát triển công nghệ đã nhanh chóng đưa công nghệ trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp. Việc phát huy tinh thần khởi nghiệp ở một số nước cũng đang có sức lan tỏa. Tuy vậy, điều không thể quên là điều kiện kinh tế - xã hội của họ khác của ta, mô hình kinh tế - xã hội của họ cũng khác của ta.
Mặt khác, ở các nước đang phát triển, nền kinh tế thị trường cạnh tranh dữ dội thì nguy cơ thị trường sẽ đi quá xa trong việc chi phối những lợi ích chính trị và xã hội, sẽ tạo nên sự phân bố không đều và không công bằng. Khi thị trường trượt khỏi vòng kiểm soát, thì tính bất ổn định thể hiện ở những nền kinh tế bùng nổ và sụp đổ và như trên kia đã nói, nền kinh tế thị trường cạnh tranh đó sẽ thách thức tất cả đạo đức con người, và hy sinh cả sự tôn trọng của công lý và quyền con người.
Nguy cơ khủng hoảng xã hội sẽ diễn ra từ đó.
Sau Cách mạng Tháng Tám, giữa bộn bề biết bao công việc: thù trong, giặc ngoài, nhân dân đói rét, đa số còn mù chữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn bình tĩnh chỉ ra trước mắt ta có ba thứ giặc cần tiêu diệt: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Theo Người, cả ba thứ giặc đều nguy hiểm như nhau, và tiêu diệt ba thứ giặc đó đều vinh quang như nhau. Việc tiến hành một cách đồng bộ cả ba mặt trận đó đã tạo điều kiện cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi hoàn toàn. Năm 1969, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang diễn ra ác liệt, trong bản Di chúc để lại, Người đã chỉ ra hàng loạt những nhiệm vụ cấp bách phải làm khi chiến tranh kết thúc. Nổi lên trong những lời căn dặn của Người vẫn là vấn đề văn hóa, vấn đề con người.
Người viết: "Công việc đầu tiên là đối với con người". Đặt con người ở vị trí đầu tiên, có nghĩa là Đảng, Nhà nước phải quan tâm giúp các tầng lớp nhân dân vượt qua những khó khăn thiếu thốn do cuộc chiến tranh để lại. Việc quan tâm con người còn có ý nghĩa phải tạo mọi điều kiện để phát triển con người về mọi mặt, đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trước mắt và lâu dài.
Có lẽ trong cảm nhận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề văn hóa, vấn đề con người luôn chiếm vị trí cực kỳ quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử, dù đó là giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc hay xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khi chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Bác khẳng định: "Văn hóa soi đường cho quốc dân đi", "một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Người cổ vũ chủ nghĩa yêu nước truyền thống, coi đó là báu vật của đất nước. Năm 1968, 1969, trước lúc đi xa, Người lại trăn trở nhiều về văn hóa, con người. Người đã trực tiếp đề xuất chủ trương tổng kết và phổ biến các tấm gương người tốt việc tốt, đồng thời viết bài báo "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân". Hai tác phẩm, hai tư tưởng lớn đó của Bác cùng ra đời vào lúc Bác viết bản Di chúc để lại cho đời. Điều đó càng làm đậm thêm tư tưởng của Người trong Di chúc: "Công việc đầu tiên là đối với con người".
Mấy chục năm qua, tuân theo lời dạy của Bác, đất nước ta đã có một sự phát triển khá ngoạn mục trên nhiều lĩnh vực. Tuy vậy, những khó khăn thách thức thì không ít, thậm chí khá nghiêm trọng. Khó khăn và thách thức đó bắt nguồn từ đâu?
Có cả nguyên nhân khách quan do tác động của mặt trái của toàn cầu hóa, của kinh tế thị trường, của những thế lực xấu đang tìm cách gây mất ổn định cho đất nước.
Nhưng chắc chắn nguyên nhân chủ quan vẫn là chính. Đó là sự xuống cấp về văn hóa và về con người. Trong chiến lược phát triển đất nước hiện nay, văn hóa và con người phải trở thành động lực. Từ nhiều năm trước Đảng ta đã khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần, là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Đó là một tư tưởng lớn. Đáng tiếc, trong hoạt động thực tiễn, nhiều khi tư tưởng đó chưa được coi trọng, thậm chí bị bỏ quên.
Đại hội XIII của Đảng đã tập trung làm rõ hơn vai trò động lực phát triển kinh tế - xã hội của văn hóa. Trong quá trình đánh giá thực tiễn đất nước mấy chục năm qua, đặc biệt mấy năm gần đây, Đại hội đã khẳng định: "Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên". Tư tưởng đó thực ra đã được đề xuất trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), nhưng do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân nhận thức là chủ yếu, tư tưởng đó chưa thật sự được triển khai trong thực tiễn. Sự yếu kém về nhận thức đã dẫn đến những sai lầm thiếu sót trong các hoạt động, đặc biệt trên các lĩnh vực thuộc về xã hội, về con người. Đúng như Văn kiện Đại hội XIII viết: "Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước".
GS.TS Trần Văn Bính nhận định, để văn hóa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững, thì văn hóa phải gắn với con người. "Văn hóa quan hệ chặt chẽ với con người như hai trang của một tờ giấy. Con người sáng tạo ra văn hóa, ra các giá trị văn hóa, và đến lượt mình, văn hóa, các giá trị văn hóa tạo nên con người. Không có giá trị văn hóa nằm ngoài con người, cũng như không có con người nằm ngoài các giá trị văn hóa. Xuất phát từ nhận thức đó, Văn kiện Đại hội XIII đã nêu bật việc tập trung xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam. Thêm một lần, chúng ta có điều kiện nhận thức sâu hơn tư tưởng trồng người của Chủ tịch Hồ Chí Minh"- GS.TS Trần Văn Bính nói.
Về tư tưởng trồng người trong tình hình mới, Nghị quyết Đại hội XIII nhấn mạnh: "Xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới". Nghị quyết khẳng định: "Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững". Con người và văn hóa chắc chắn là động lực quyết định sự phát triển đất nước, khẳng định thương hiệu quốc gia. Tất nhiên, cùng với việc phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc thì phải chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại./.