(Tổ Quốc) - Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển của các quốc gia ngày càng ảnh hưởng lẫn nhau, các ngành công nghiệp văn hóa chính là một tài sản chiến lược trong chính sách ngoại giao, hợp tác quốc tế và giúp củng cố tính độc đáo của quốc gia.
Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam
Theo PGS.TS Bùi Hoài Sơn, khái niệm về công nghiệp văn hóa được sử dụng phổ biến nhất hiện nay ở các quốc gia trên thế giới cũng như các tổ chức quốc tế đó là: "Những ngành công nghiệp xuất phát từ sự sáng tạo, kỹ năng và tài năng của cá nhân, có tiềm năng tạo ra lợi nhuận và việc làm thông qua việc tạo ra và khai thác tài sản trí tuệ".
Ở Việt Nam các ngành công nghiệp văn hóa gồm các lĩnh vực sử dụng năng lực sáng tạo, nguồn vốn văn hóa, kết hợp chặt chẽ với ứng dụng công nghệ và kỹ năng kinh doanh, để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ văn hóa đáp ứng nhu cầu của người dân và xã hội. Các ngành công nghiệp văn hóa gồm các lĩnh vực có tầm quan trọng sau: 1. Quảng cáo; 2. Kiến trúc; 3. Phần mềm và các trò chơi giải trí; 4. Thủ công mỹ nghệ; 5. Thiết kế; 6. Điện ảnh; 7. Xuất bản; 8. Thời trang; 9. Nghệ thuật biểu diễn; 10. Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm; 11. Truyền hình và phát thanh; 12. Du lịch văn hóa.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn cũng đưa ra 9 lý do để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam. Đó là trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển của các quốc gia ngày càng ảnh hưởng lẫn nhau, các ngành công nghiệp văn hóa chính là một tài sản chiến lược trong chính sách ngoại giao, hợp tác quốc tế và giúp củng cố tính độc đáo của quốc gia. Công nghiệp văn hóa đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy bản sắc văn hóa và hiện đại hơn cho đất nước.
Với thành tố then chốt là vốn văn hóa vững chắc và tinh thần doanh nghiệp, các ngành công nghiệp văn hóa chính là công cụ hữu hiệu cho tăng trưởng, đổi mới kinh tế, biến văn hóa trở thành một thành tố quan trọng của thương mại và cạnh tranh quốc tế, giúp xây dựng được nền kinh tế sáng tạo mạnh mẽ, bao gồm các lĩnh vực có giá trị kinh tế cao.
Các ngành công nghiệp văn hóa thúc đẩy cố kết xã hội thông qua sự tham gia tích cực của các cộng đồng, các nhóm, cá nhân khác nhau vào hoạt động văn hóa, và thông qua việc nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp của cơ sở vật chất cũng như các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực văn hóa.
Bên cạnh đó, các ngành công nghiệp văn hóa có thể cung cấp những cơ hội để phát triển tài năng và tạo công ăn việc làm bền vững (ví dụ như trong lĩnh vực truyền thông số), đóng góp đáng kể cho tổng sản phẩm nội địa (GDP), thay đổi bộ mặt của địa phương, hay như hình thành các khu vực sáng tạo trong thành phố, hoặc tăng cường các thiết chế văn hóa tại vùng nông thôn.
Các ngành công nghiệp văn hóa còn có thể tạo ra "tác động lan tỏa", ví dụ các ngành công nghiệp văn hóa năng động, vững mạnh sẽ nâng cao chất lượng và hình ảnh của du lịch văn hóa, ngành thiết kế phát triển sẽ thúc đẩy năng lực cạnh tranh, cải tiến thương hiệu cho các lĩnh vực dịch vụ và sản xuất. Tăng trưởng của lĩnh vực kỹ thuật số sẽ mở ra các thị trường quốc tế mới cho các lĩnh vực khác (ví dụ điện ảnh thúc đẩy du lịch văn hóa phát triển).
Một trong những lý do để phát triển ngành công nghiệp văn hóa nữa là có quá nhiều tài năng chưa bộc lộ được năng lực tương xứng của họ – một phần do lĩnh vực giáo dục chưa trang bị các kỹ năng sáng tạo và các kiến thức cần thiết để thành công trong các ngành công nghiệp văn hóa. Lực lượng lao động cũng chưa được tiếp cận các kỹ năng và chuyên môn phù hợp để thích ứng, vận hành hiệu quả các mô hình tổ chức cũng như kinh doanh mới trong các ngành công nghiệp văn hóa.
Việt Nam đang bị tụt hậu đáng kể trong khi những tiến bộ về hệ thống quản trị, công nghệ mới, nguồn lực tài chính, nguồn nhân lực và môi trường hỗ trợ nói chung cho các ngành công nghiệp văn hóa trên thế giới không ngừng tăng tốc. Đặc biệt, quá trình chuyển đổi từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường diễn ra chậm chạp, các vấn đề vi phạm bản quyền, sự quan liêu và kiểm duyệt kết hợp cùng nhau, làm giảm sự tự tin và làm dập tắt tinh thần doanh nghiệp trong văn hóa, và đồng thời, cũng ảnh hưởng tiêu cực tới đóng góp của lĩnh vực văn hóa cho kinh tế và xã hội trong nước.
Trong bối cảnh đất nước đang tiếp tục đổi mới, tăng cường hội nhập quốc tế, tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa là một trong những bước đi đột phá để biến những khát vọng của đất nước thành hiện thực. Nó chính là công cụ hiệu quả để biến văn hóa thành động lực phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy nền kinh tế cạnh tranh, đa dạng và hiệu quả hơn, tiếp tục tái khẳng định Việt Nam như một xã hội đổi mới và tiến bộ. Các ngành công nghiệp văn hóa đem lại những giá trị trực tiếp và gián tiếp: tạo ra những cơ hội mới trong công ăn việc làm, thúc đẩy tiến trình cải tổ, mở ra những thị trường mới cho các sản phẩm và dịch vụ sáng tạo.
Quan trọng hơn nữa, một cách tiếp cận sáng tạo và nhất quán của việc phát triển này giúp chúng ta tận dụng được tối đa những nguồn lực quan trọng của đất nước: đó là tài năng của dân số trẻ, với sự sáng tạo và kết nối với toàn cầu, đó là vốn văn hóa truyền thống với bề dày hàng nghìn năm của dân tộc, đó là năng lực thích ứng nhanh nhạy và bền bỉ của người Việt Nam.
Thực trạng và giải pháp
Việt Nam có một nền văn hóa giàu có, độc đáo và đa dạng được hình thành qua nhiều thế kỷ. Điều này được biểu hiện qua sự phong phú của nhiều ngành nghề thủ công, nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, nghệ thuật, kiến trúc, lễ hội độc đáo của 54 tộc người. Trong những năm gần đây, vốn di sản văn hóa phong phú và đặc sắc của Việt Nam bắt đầu được phục hồi và ghi nhận bởi các tổ chức quốc tế.
Một thế mạnh nữa là Việt Nam có dân số trẻ và tăng trưởng nhanh, có năng lực sáng tạo tốt và nhanh nhạy trong kết nối toàn cầu. Một số cá nhân tài năng như các nghệ sĩ, các nhà sản xuất văn hóa và kinh doanh, tổ chức các hoạt động văn hóa có tâm huyết đang hình thành, đây chính là những nhân lực quan trọng cho sự tăng trưởng trong công nghiệp văn hóa của đất nước.
Bề dày lịch sử với nhiều thích ứng và đổi mới cũng là thế mạnh không thể không nhắc tới. Nhân dân ta có truyền thống cần cù lao động, luôn dễ dàng thích ứng với những đổi mới. Tăng trưởng trong công nghiệp văn hóa sẽ đưa bản sắc văn hóa của Việt Nam bước vào một giai đoạn mới, gia tăng lợi ích kinh tế và thúc đẩy phát triển công nghệ số.
Chiến lược phát triển ngành các ngành công nghiệp văn hóa được xác định như một thành tố then chốt trong chiến lược phát triển quốc gia. Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị quyết 31/NQ-CP ngày 13 tháng 5 năm 2014 về hội nhập quốc tế trong đó xác định xây dựng và triển khai chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa là một trong những mục tiêu quan trọng. Như vậy, thông qua việc thực hiện Nghị quyết của Chính phủ và sự phối hợp của các Bộ, Ban, Ngành, cộng với mối quan tâm thực sự của các cơ quan quốc tế, các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam có khả năng sẽ nhận được sự hỗ trợ nhiều hơn so với các nước đang phát triển khác. Với tầm nhìn dài hạn đến 2030, việc thực hiện của chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa được bắt đầu từ một nền tảng thực sự vững mạnh.
Tuy nhiên bên cạnh những điểm mạnh thì chúng ta còn tồn tại một số điểm yếu, hạn chế như: Hệ thống quản lý và các mô hình đầu tư chưa thực sự phù hợp cho sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp văn hóa. Các cơ chế thích hợp cho sự thành công của công nghiệp văn hóa chưa được vận hành. Thiếu sự hợp tác hiệu quả trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp có liên quan trong lĩnh vực văn hóa…
Mục tiêu đến năm 2030 về công nghiệp văn hóa ở Việt Nam được đưa ra bao gồm: Mở rộng phát triển sản phẩm, dịch vụ của các lĩnh vực như: thiết kế, thời trang, điện ảnh, xuất bản, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, nghệ thuật thị giác, kiến trúc. Mục tiêu này nhằm tạo ra thương hiệu quốc gia về công nghiệp văn hóa hay xây dựng một loạt các thương hiệu (ví dụ như các thương hiệu theo phân ngành cụ thể), để quảng bá cho ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam trên toàn quốc và trên thế giới. Những lĩnh vực trên được đánh giá là các lĩnh vực có tiềm năng phát triển của Việt Nam, có khả năng tạo ra lợi thế so sánh với các nước trong khu vực. Hoạt động này cũng có thể kết hợp với du lịch và các hoạt động thu hút đầu tư trong nước.
Cùng với đó là các mục tiêu: Hình thành thị trường phát triển ổn định cho các ngành công nghiệp văn hóa; Các ngành công nghiệp văn hóa trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đóng góp vào giá trị gia tăng, tạo việc làm cho xã hội; Hình thành một số trung tâm sáng tạo trên toàn quốc; Tham gia vào mạng lưới các ngành công nghiệp văn hóa toàn cầu, thiết lập mạng lưới quốc tế cho các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam.
Để đạt được mục tiêu, PGS. TS Bùi Hoài Sơn đưa ra 11 giải pháp, đó là: Đánh giá mô hình quản trị và đầu tư tổng thể cho văn hóa ở Việt Nam để giảm sự chồng chéo và quan liêu trong cơ cấu ban ngành, khuyến khích một loạt các mô hình đầu tư và kinh doanh đối với các tổ chức văn hóa, ứng dụng một tinh thần mới về sáng tạo và cải tổ cho các thiết chế văn hóa hiện đang vận hành trì trệ;
Tiếp đến, định vị ngành công nghiệp văn hóa và nền kinh tế sáng tạo mang tính tổng thể như một chương trình nghị sự trọng điểm trong phát triển của tất cả bộ ngành với tầm nhìn đến năm 2030. Điều này nhằm đảm bảo một cách tiếp cận phối hợp ở mọi lĩnh vực: văn hóa, kinh tế, xã hội, giáo dục cũng như với các chương trình nghị sự quan trọng khác về phát triển.
Cùng với đó, mở ra những mô hình đầu tư mới cho công nghiệp văn hóa, bao gồm các cơ hội cho các tổ chức văn hóa có thể đa dạng hóa nguồn thu, kinh doanh và tiếp cận những loại hình tài chính khác nhau (bao gồm các khoản cho vay), và tham gia vào các hợp tác công – tư, vào các công việc kinh doanh hay các dự án chung (gồm các dự án với các tổ chức văn hóa và các doanh nghiệp hàng đầu trên thế giới);
Có những hình thức trao thưởng cho tinh thần doanh nghiệp và sự đổi mới trong các tổ chức văn hóa thông qua tăng lương, thưởng và các điều kiện cải thiện khác cho các chuyên gia văn hóa, những người tạo ra các hiệu quả phát triển đo lường được (ví dụ như tăng doanh thu, tăng lượng công chúng, thực hiện tốt các chương trình giáo dục và các chương trình xã hội);
Đánh giá các quy định về quyền sở hữu trí tuệ - để hướng đến một cấu trúc luật định tổng thể về tài sản trí tuệ một cách rõ ràng hơn cho Việt Nam. Trong đó liên quan đến việc từng ngành công nghiệp văn hóa để nhận diện được những cơ hội cải tổ về quản lý và điều phối các vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ cho người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa. Điều này cần được thiết lập để tăng nguồn thu phí bản quyền thông qua doanh thu số hóa hay hiệu quả kinh doanh, bao gồm cả việc xây dựng năng lực và đầu tư lớn hơn của nhà nước đối với các đơn vị thu phí bản quyền;
Xây dựng một hệ thống phân loại rõ ràng, dễ hiểu về thẩm định tác phẩm để giúp những người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa và đầu tư văn hóa có thể tự tin trong hoạt động của mình;
Song song với đó ứng dụng các sáng kiến hoạch định cho những hoạt động của các tổ hợp sáng tạo của công nghiệp văn hóa.
Tìm các cơ hội về ưu đãi thuế đối với đầu tư cho công nghiệp văn hóa cũng là một trong các giải pháp được PGS.TS Bùi Hoài Sơn đề cập đến.
Thực hiện các sáng kiến về xuất khẩu sản phẩm và dịch vụ văn hóa, mở rộng hoạt động trao đổi văn hóa với quốc tế và xây dựng các thị phần cho công nghiệp văn hóa Việt Nam.
Đánh giá lại các hiệp định thương mại quốc tế và các luật định để cải tiến các điều kiện về kinh doanh văn hóa và giảm chi phí đối với thiết bị nhập khẩu có tầm quan trọng lớn cho sản xuất trong công nghiệp văn hóa;
Lựa chọn về mô hình phù hợp cho phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, ví dụ như, các mô hình ủy ban điện ảnh, các đơn vị/tổ chức/hiệp hội phát triển thủ công nghiệp và các phương thức đầu tư, đóng góp chuyên biệt, ví dụ như việc hiến tặng, bảo trợ, tài trợ cho văn hóa – ông Bùi Hoài Sơn nêu ý kiến.
(Trích lược chuyên đề Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam – PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, trong bộ tài liệu chủ đề "Xây dựng hệ giá trị văn học, nghệ thuật Việt Nam theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng" do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương phối hợp với Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC xây dựng)