(Tổ Quốc) - Chuyển đổi số là một xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Riêng ở lĩnh vực văn hóa, di sản, việc số hóa và từng bước chuyển đổi số được xem là một bước tiến quan trọng để vừa làm tốt công tác bảo tồn di sản, vừa đem lại những thay đổi tích cực trong việc khai thác, quảng bá văn hóa, di sản.
- 27.10.2022 Chuyển đổi số trong du lịch: Văn Miếu – Quốc Tử Giám sắp có tour đêm 3D
- 27.10.2022 Ngành VHTTDL nỗ lực chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ một cách tổng thể, toàn diện
- 27.10.2022 Tổng cục trưởng Tổng cục TDTT: "Ngành thể thao đang có thuận lợi lớn trong việc thực hiện Chuyển đổi số"
- 27.10.2022 Bảo tàng chuyển đổi số: Tham quan hàng loạt hiện vật quý chỉ với 50.000 đồng
- 26.10.2022 Thực hiện mạnh mẽ hơn nữa công cuộc chuyển đổi số trong ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch
Chuyển đổi số có vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội ở giai đoạn hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, chuyển đổi số là xu thế tất yếu trên toàn cầu và là giải pháp quan trọng làm cơ sở xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, mỗi quốc gia.
Hình thành cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa
Chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa di sản đang diễn ra liên tục xuyên suốt và không ngừng nghỉ theo từng mức độ phát triển công nghệ. Các ưu việt của công nghệ mới đã và đang được khai thác tối đa trong các hoạt động của đời sống xã hội nói chung và của ngành văn hóa nói riêng.
Theo bà Lê Thị Thu Hiền, Cục trưởng Cục Di sản, trong thời gian qua, nhận thức của các cấp về việc số hóa, chuyển đổi số xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia đã được nâng cao, nhờ vậy, việc chuyển đổi số trong công tác bảo vệ, phát huy di sản đã đạt nhiều kết quả. Bước đầu tạo được kết nối liên thông thành hệ thống quản lý chung trên phạm vi rộng. Đẩy mạnh việc số hóa, chuyển đổi số, hình thành cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa, tiến tới cập nhật nền tảng bản đồ số. Nâng cao năng lực cán bộ trong việc ứng dụng KHCN.
Cũng theo Cục trưởng Cục Di sản văn hóa, hoạt động trưng bày, triển lãm ở bảo tàng cũng có những thay đổi căn bản trên theo xu hướng phát triển của công nghệ. Theo đó, trưng bày không chỉ là phương thức online mà còn kết hợp các phương thức số hóa tạo phong cách mới cho du khách tiếp cận. Bảo tàng Lịch sử quốc gia, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Hoàng thành Thăng Long, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh... là những nơi đi đầu thực hiện ứng dụng công nghệ hiện đại trong trưng bày và giới thiệu trưng bày. ..
Bà Lê Thị Thu Hiền cho biết, hơn 90% số tỉnh/thành phố đã được trang bị cơ bản về hạ tầng cơ sở, gồm: phòng làm việc, máy tính, đường truyền Internet, các ổ sao lưu, một số tỉnh còn được trang bị máy chủ (Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Cần Thơ, Thành phố Hồ Chí Minh…).
Theo bà Huỳnh Phương Lan - Viện Bảo tồn di tích, việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số là công cụ hữu hiệu nhất để duy trì, gìn giữ, phát huy và nâng tầm các giá trị di sản, văn hóa truyền thống.
Bà Huỳnh Phương Lan cho biết, hiện nay tại nhiều địa phương, đã bước đầu triển khai thực hiện các giải pháp chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ số hóa 3D trong việc quản lý, khai thác, quảng bá và phát huy giá trị di sản, tiêu biểu như Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế triển khai app hướng dẫn tham quan "Di tích Huế", ứng dụng công nghệ trải nghiệm thực tế ảo VR 3D trong hoạt động tham quan tại Hoàng Thành Thăng Long…, số hóa các tài liệu Hán Nôm các văn bản, tư liệu Hán Nôm sưu tầm tại các di tích. Đây là thành tựu bước đầu, tạo cơ sở cho việc chuyển đổi số trong lĩnh vực bảo tồn di tích.
Trên thế giới, công nghệ thực tế ảo đã được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực bảo tồn di tích, đặc biệt trong việc tái hiện, phục dựng các di tích, thắng cảnh đến nay không còn quá mới mẻ. Hầu hết các di tích lớn như: đấu trường La Mã, các lăng tẩm Ai Cập cổ đại, cố đô Nara (Nhật Bản), Đại Minh cung (Trung Quốc), đền Ananda Ok Kyaung (Bagan, Myanmar), cung điện Al Azem Palace (Damascus, Syria), thành phố cổ Chichen Itza (Mexico)... đều đã ứng dụng công nghệ này. Gần đây, việc nghiên cứu xây dựng mô hình phục dựng điện Kính Thiên (Hoàng thành Thăng Long) phục vụ công tác phục dựng cũng thu hút đông đảo người quan tâm.
"Trong nhiều năm nay, Viện Bảo tồn di tích đã thực hiện việc số hóa di tích, trong đó tập trung vào việc số hóa các dữ liệu liên quan tới di tích và công tác bảo tồn di tích, số hóa 2D và 3D đối với một số di tích tiêu biểu. Hệ thống cơ sở dữ liệu này đã được công bố trên website Ngân hàng dữ liệu số về di tích và công tác bảo tồn di tích, với dữ liệu của 4000 di tích, thu hút đông đảo số lượng người tham gia truy cập"- bà Huỳnh Phương Lan nói.
Thừa Thiên Huế là vùng đất có bề dày lịch sử và chiều sâu văn hóa và đang lưu giữ một kho tàng di sản văn hóa phong phú, đa dạng cả về văn hóa vật thể và phi vật thể. Đây cũng là địa phương được đánh giá thành công, đi đầu trong số hóa di sản.
Ông Phan Thanh Hải, Giám đốc Sở VHTT Thừa Thiên Huế cho biết: "Hệ thống các di tích, hiện vật, tư liệu, các lễ hội tiêu biểu, có giá trị trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế đã được kiểm kê, chuẩn hóa thông tin, lý lịch khoa học kèm bản chụp các hình ảnh về di tích, hiện vật, tư liệu, lễ hội. Đây là tiền đề thuận lợi để đẩy mạnh việc thực hiện số hóa, chuyển đổi số các di sản văn hóa trong thời gian tới".
Cần sự đồng bộ
Theo bà Lê Thị Thu Hiền, việc chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, di sản vẫn còn nhiều khó khăn như xây dựng kho dữ liệu chưa thường xuyên, liên tục và bền vững; chưa tính đến việc liên kết dữ liệu để cùng khai thác đáp ứng được nhu cầu phát triển. Phần mềm dùng chung có hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế. Cơ sở dữ liệu được xây dựng và vận hành độc lập với ứng dụng công nghệ khác nhau, quản lý và khai thác riêng, chưa có liên kết và phân cấp quản lý, khai thác.
Cục trưởng Cục Di sản văn hóa chỉ ra nguyên nhân của vấn đề trên là do nguồn nhân lực còn mỏng chưa đáp ứng yêu cầu. Nguồn lực đầu tư quá ít, không đảm bảo sự đồng bộ. Ngoài ra, trách nhiệm và sự tham gia của các tổ chức/cá nhân liên quan chưa chặt chẽ, thiếu quy chế liên kết triển khai hiệu quả.
Đồng quan điểm, ông Phan Thanh Hải cho rằng, việc quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị kho tàng di sản văn hóa phong phú đó đòi hỏi cần phải có sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ cán bộ trực tiếp tham mưu thực hiện công tác bảo tồn, bảo tàng; đặc biệt cần có những công cụ, phương thức quản lý khoa học, hiện đại để vừa nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo tồn, vừa khai thác và phát huy hiệu quả các giá trị của văn hóa, di sản để đẩy mạnh phát triển du lịch, dịch vụ, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Và việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số là công cụ hữu hiệu nhất để duy trì, gìn giữ, phát huy và nâng tầm các giá trị di sản, văn hóa truyền thống ở Thừa Thiên Huế trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Bà Huỳnh Phương Lan cũng cùng quan điểm khi cho rằng, để thực hiện việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ là rất cần thiết và cần được thực hiện theo lộ trình bài bản, khoa học, có sự phối hợp linh hoạt giữa các địa phương, bộ, ngành liên quan. Đầu tiên là giải bài toán đầu tư kinh phí cho ứng dụng để công nghệ phát triển, cập nhật liên tục.
Theo đó, Nhà nước cần đầu tư các nền tảng công nghệ lõi mang tính xương sống, cơ bản để doanh nghiệp, xã hội, địa phương có thể dựa trên đó hoàn thiện, đồng bộ và phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ; ban hành chính sách đa dạng hóa nguồn vốn, tạo điều kiện xã hội hóa nguồn tài chính cho phát triển công nghệ... Song song với đó, đầu tư phát triển nguồn lực con người cũng là yếu tố then chốt. Bên cạnh một đội ngũ có trình độ chuyên môn về khảo cổ, lịch sử, văn hóa, kiến trúc, cần đào tạo một đội ngũ nhân lực công nghệ riêng, có khả năng nắm bắt, thực hành các thành tựu, xu hướng mới của công nghệ, từ đó có sự phối hợp hiệu quả./.